Cụ Võ Duy Dương - Anh hùng yêu nước và kiên cường

4
(250 votes)

Tôi đã có cơ hội đến dự lễ tương nhớ của Anh hùng dân tộc Võ Duy Dương. Mỗi năm, khi đến ngày rằm tháng 11 âm lịch, lễ tương nhớ được tổ chức long trọng với hàng ngàn người dân đến viếng đền, tưởng nhớ ông đồng thời tham gia các hoạt động văn hóa trong lễ hội. Khi tôi đứng trước ngôi đền của ông, lòng tôi tràn đầy cảm xúc và niềm tự hào. Đền thờ Võ Duy Dương là một tác phẩm kiến trúc tuyệt đẹp, mang đậm dấu ấn văn hóa và lịch sử. Bên trong đền, ở giữa là bàn thờ chính điện với tượng đồng của cụ Võ Duy Dương được đặt trong khánh thờ trang trí bằng gỗ chạm tứ linh, sơn son thiếp vàng lấp lánh. Từ sáng sớm, dòng người tấp nập về thấp hương và dâng lễ, thể hiện lòng tương nhớ bậc tiền nhân. Lễ vật trên bàn thờ được sắp xếp rất tinh tế. Những mâm trái cây và sản vật được bày trí thành hình rồng phương, thể hiện ý nghĩa tốt đẹp. Mùi hương trầm nhe nhàng lan tỏa khắp không gian. Trong không khí trang nghiêm, bài diễn văn tưởng nhớ của ban tổ chức đã gợi lên hình ảnh người anh hùng Võ Duy Dương mang phong thái oai hùng mà gần gũi. Ông sinh năm 1827 ở thôn Cù Lâm Nam, thuộc phủ Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Nam Tương, xã Nhơn Tân huyện An Nhơn tỉnh Bình Định). Ông là con thứ ba trong gia đình, em ruột của anh hùng chống Pháp Võ Duy Tân và thuở nhỏ ông là người sáng trí khỏe mạnh, giỏi vỡ nghệ. Tháng 2 năm 1859, Pháp đánh thành Gia Định. Ông cùng Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, lập Đội Nghĩa ứng kéo về Gia Định đánh Pháp, ông được phong chức Chánh quản đạo. Thành Gia Định vỡ, ông vượt biển về kinh, bái yết vua Tự Đức hiến kế đuổi giặc. Ông được điều về Quảng Nam để tiếp tục cuộc nổi dậy của người Thạch Bích và được phong hàm Chánh bát phẩm Thiên hộ vào năm 1860. Tháng 5/1861, ông được phái về Nam với nhiệm vụ chiêu mộ nghĩa đồng chống giặc. Đầu năm 1862, quân Pháp đột kích căn cứ Thuộc Nhiêu Trần Xuân Hoà bị bắt và tư từ ông tiếp tục cuộc kháng chiến đến khi Đỗ Thúc Tinh hy sinh, Nguyễn Hữu Huân bị bắt, rồi mới rút về Bình Cách. Lực lượng nghĩa quân đánh Pháp nhiều trận gây cho chúng nhiều tổn thất. Đến năm 1864, Trương Định hy sinh, Thiên Hộ Dương rút quân về Tháp Mười xây dựng căn cứ. Năm 1865, nghĩa quân đánh vào nhiều nơi nhất là trận M9 Trà khiến Phó đô đốc Roze phải đưa viện binh từ Sài Gòn cứu viện. Tháng 4/1866, De Lagrandière tập trung quân chia làm ba mũi tấn công vào Đồng Tháp Mười. Sau gần mười ngày giao tranh với giặc, Thiên Hộ Dương ra lệnh rút lui về biên giới và Cái Bè. Tháng 11/1866, Thiên Hộ Dương vượt biển về Kinh, đến cửa Cần Giờ, bất ngờ ông bị Lý Sen, một tên cướp biến giết chết. Sau phần lễ trang trọng, uy nghiêm là phần hội náo nhiệt. Sau phần lễ trọng thể trang nghiêm là đã hi sinh, nhưng lòng yêu nước, khí phách anh hùng, hào sảng của ông là điều bất diệt.