Trang chủ
/
Kinh doanh
/
lương thực tế. Thí dụ nếu có 2 doanh nghiệp và 1 cơ quan trong một thị trường lao động nào đó và ở mức lương cho trước doanh nghiệp A muốn thuê 12 lao động, doanh nghiệp B muốn thuê 6 lao động cơ quan C muốn thuê 20 lao động thì cầu thị trường ở mức tiền lương thực tế đó là 38 lao động. Nhưng quan trọng hơn chính là ở việc đường cầu lao động của thị trường là dẫn xuất từ đường cầu của doanh nghiệp , cơ quan, nên đường cầu lao động của thị trường cũng có độ dốc đi xuống, là hàm nghịch biến của tiền lương thực tế. Khi tiền lương thực tế giảm, số lao động mà các doanh nghiệp, cơ quan hiện hành muốn thuê sẽ tǎng , thêm vào đó khi tiền lương thực tế giảm sẽ tạo ra khả nǎng sinh lợi khuyến khích các doanh nghiệp mới nhập ngành . Ngược lại, khi tiền lương thực tế tǎng, số lao động mà các doanh nghiệp, cơ quan hiện hành muốn thuê sẽ giảm, thêm vào đó có một số doanh nghiệp phải ngừng hoạt động hoàn toàn. d) Những phản đối với lý thuyết nǎng suất biên của cầu Có hai loại ý kiến phản đối lại lý thuyết cầu lao động vừa được nêu ở trên . Loại thứ nhất cho rằng hầu như không một người chủ nào đã từng biết về thuật ngữ "sản phẩm biên của lao động" và lý thuyết cũng đã phức tạp hoá vai trò của người chủ trong khi vấn đề thực ra không phải là ở đó. Những người chủ phản đối lại quy tắc của sách giáo khoa về tối đa hoá lợi nhuận là không phổ biến và trên thực tế không thể đo lường một cách chính xác về giá trị sản lượng của các đơn vị lao động cá nhân riêng rẽ. Trả lời cho vấn đề này như

Câu hỏi

lương thực tế. Thí dụ nếu có 2 doanh nghiệp và 1 cơ quan
trong một thị trường lao động nào đó và ở mức lương cho trước
doanh nghiệp A muốn thuê 12 lao động, doanh nghiệp B muốn
thuê 6 lao động cơ quan C muốn thuê 20 lao động thì cầu thị
trường ở mức tiền lương thực tế đó là 38 lao động. Nhưng
quan trọng hơn chính là ở việc đường cầu lao động của thị
trường là dẫn xuất từ đường cầu của doanh nghiệp , cơ quan,
nên đường cầu lao động của thị trường cũng có độ dốc đi
xuống, là hàm nghịch biến của tiền lương thực tế. Khi tiền
lương thực tế giảm, số lao động mà các doanh nghiệp, cơ quan
hiện hành muốn thuê sẽ tǎng , thêm vào đó khi tiền lương thực
tế giảm sẽ tạo ra khả nǎng sinh lợi khuyến khích các doanh
nghiệp mới nhập ngành . Ngược lại, khi tiền lương thực tế
tǎng, số lao động mà các doanh nghiệp, cơ quan hiện hành
muốn thuê sẽ giảm, thêm vào đó có một số doanh nghiệp phải
ngừng hoạt động hoàn toàn.
d) Những phản đối với lý thuyết nǎng suất biên của cầu
Có hai loại ý kiến phản đối lại lý thuyết cầu lao động vừa
được nêu ở trên . Loại thứ nhất cho rằng hầu như không một
người chủ nào đã từng biết về thuật ngữ "sản phẩm biên của
lao động" và lý thuyết cũng đã phức tạp hoá vai trò của
người chủ trong khi vấn đề thực ra không phải là ở đó.
Những người chủ phản đối lại quy tắc của sách giáo khoa về
tối đa hoá lợi nhuận là không phổ biến và trên thực tế không
thể đo lường một cách chính xác về giá trị sản lượng của các
đơn vị lao động cá nhân riêng rẽ. Trả lời cho vấn đề này như
zoom-out-in

lương thực tế. Thí dụ nếu có 2 doanh nghiệp và 1 cơ quan trong một thị trường lao động nào đó và ở mức lương cho trước doanh nghiệp A muốn thuê 12 lao động, doanh nghiệp B muốn thuê 6 lao động cơ quan C muốn thuê 20 lao động thì cầu thị trường ở mức tiền lương thực tế đó là 38 lao động. Nhưng quan trọng hơn chính là ở việc đường cầu lao động của thị trường là dẫn xuất từ đường cầu của doanh nghiệp , cơ quan, nên đường cầu lao động của thị trường cũng có độ dốc đi xuống, là hàm nghịch biến của tiền lương thực tế. Khi tiền lương thực tế giảm, số lao động mà các doanh nghiệp, cơ quan hiện hành muốn thuê sẽ tǎng , thêm vào đó khi tiền lương thực tế giảm sẽ tạo ra khả nǎng sinh lợi khuyến khích các doanh nghiệp mới nhập ngành . Ngược lại, khi tiền lương thực tế tǎng, số lao động mà các doanh nghiệp, cơ quan hiện hành muốn thuê sẽ giảm, thêm vào đó có một số doanh nghiệp phải ngừng hoạt động hoàn toàn. d) Những phản đối với lý thuyết nǎng suất biên của cầu Có hai loại ý kiến phản đối lại lý thuyết cầu lao động vừa được nêu ở trên . Loại thứ nhất cho rằng hầu như không một người chủ nào đã từng biết về thuật ngữ "sản phẩm biên của lao động" và lý thuyết cũng đã phức tạp hoá vai trò của người chủ trong khi vấn đề thực ra không phải là ở đó. Những người chủ phản đối lại quy tắc của sách giáo khoa về tối đa hoá lợi nhuận là không phổ biến và trên thực tế không thể đo lường một cách chính xác về giá trị sản lượng của các đơn vị lao động cá nhân riêng rẽ. Trả lời cho vấn đề này như

expert verifiedXác minh chuyên gia

Giải pháp

4.7(272 phiếu bầu)
avatar
Vânthầy · Hướng dẫn 5 năm

Trả lời

Những phản đối với lý thuyết năng suất biên của cầu thường xuất phát từ việc hiểu biết và áp dụng thực tế của các doanh nghiệp và cơ quan. Dưới đây là một số lý do cụ thể:<br /><br />1. **Thuật ngữ phức tạp**: Trong thực tế, nhiều người chủ doanh nghiệp không sử dụng thuật ngữ "sản phẩm biên của lao động". Họ thường quan tâm đến hiệu suất và kết quả kinh doanh trực tiếp hơn là các khái niệm học thuật.<br /><br />2. **Phức tạp hóa vai trò của người chủ**: Lý thuyết có thể làm phức tạp quá trình ra quyết định của người chủ, khi mà trong thực tế, người chủ thường dựa vào kinh nghiệm và dữ liệu cụ thể hơn là các mô hình lý thuyết.<br /><br />3. **Khác biệt về tối đa hóa lợi nhuận**: Trong lý thuyết, doanh nghiệp thường được xem là muốn tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều doanh nghiệp phải cân nhắc đến các yếu tố khác như thị phần, cạnh tranh và sự ổn định kinh doanh.<br /><br />4. **Khó khăn trong đo lường**: Trên thực tế, việc đo lường giá trị sản lượng của các đơn vị lao động cá nhân riêng rẽ là rất khó khăn và không chính xác. Các yếu tố như chất lượng công việc, môi trường làm việc và sự tương tác giữa các nhân viên đều ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng.<br /><br />Những phản đối này cho thấy rằng, mặc dù lý thuyết có thể cung cấp một khung lý luận hấp dẫn, nhưng việc áp dụng nó vào thực tế cần phải linh hoạt và phù hợp với bối cảnh cụ thể của từng doanh nghiệp hoặc cơ quan.