Trang chủ
/
Sinh học
/
Vị trí của hộp TATA ở 2 loài nấm men, Saccharomyces pombe và Saccharomyces cerevisiae, khác nhau đáng kể . Hộp TATA của S.pombe nằm khoảng 30 nucleotide ngược dòng vị trí phiên mã đầu tiên, tương tự ở hầu hết tế bào nhân thực kháC. Tuy nhiên, hộp TATA của S. cerevisiae nằm khoảng 40 đến 120 nucleotide ngược dòng vị trí phiên mã đầu tiên. Để hiểu rõ hơn thứ gì đã quy định vị trí phiên mã đầu tiên ở những sinh vật này . các nhà nghiên cứu tại đại học Stanford thực hiện một chuỗi thí nghiệm để xác định các thành phần nào của bộ máy phiên mã ở 2 loài này có thể được trao đổi cho nhau . Trong các thí nghiệm , những nhân tố phiên mã khác nhau và ARN polymerase được trao đổi giữa S. pombe và S. cerevisiae và ảnh hưởng của việc trao đổi lên mức độ tổng hợp ARN và lên điểm bắt đầu phiên mã được quan sát. Kết quả từ một tập hợp thí nghiệm được thể hiện trong bảng dưới đây. Các thành phần cTFIIB, cTFIIE, cTFIIF , cTFIIH là yếu tố phiên mã ở S.cerevisiae. Các thành phần pTFIIB, pTFIIE, pTFIIF, pTFIIH là yếu tố phiên mã ở S. pombe. Các thành phần cPol II và pPol II lần lượt là ARN polymerase II ở S. cerevisiae và S. pombe. Bảng chỉ ra thành phần nào được bố sung (+) hoặc không được bổ sung ( ) vào từng thí nghiệm.Trên bản gel điện di, sự hiện diện của một bǎng cho biết ARN được tổng hợp và vị trí của bǎng cho biết nó là chiều dài được dự đoán khi phiên mã bắt đầu từ 30 bp xuôi dòng hộp TATA hay từ 40 đến 120 bp xuôi dòng hộp TATA. a) Từ dữ liệu này, kết luận nào bạn có thể đưa ra về các thành phần xác định vị trí phiên mã đầu tiên? b) Kết luận nào bạn có thể đưa ra về tương tác giữa các thành phần khác nhau của bộ máy phiên mã? c) Đề xuất một cơ chế giải thích tại sao vị trí bắt đầu phiên mã ở S. pombe nằm khoảng 30 bp xuôi dòng từ hộp TATA, trong khi vị trí bắt đầu phiên mã ở S. cerevisiae nằm khoảng 40 đến 120 bp xuôi dòng từ hộp TATA.

Câu hỏi

Vị trí của hộp TATA ở 2 loài nấm men, Saccharomyces pombe và Saccharomyces cerevisiae,
khác nhau đáng kể . Hộp TATA của S.pombe nằm khoảng 30 nucleotide ngược dòng vị trí phiên
mã đầu tiên, tương tự ở hầu hết tế bào nhân thực kháC. Tuy nhiên, hộp TATA của S. cerevisiae
nằm khoảng 40 đến 120 nucleotide ngược dòng vị trí phiên mã đầu tiên.
Để hiểu rõ hơn thứ gì đã quy định vị trí phiên mã đầu tiên ở những sinh vật này . các nhà
nghiên cứu tại đại học Stanford thực hiện một chuỗi thí nghiệm để xác định các thành phần nào
của bộ máy phiên mã ở 2 loài này có thể được trao đổi cho nhau . Trong các thí nghiệm , những
nhân tố phiên mã khác nhau và ARN polymerase được trao đổi giữa S. pombe và S. cerevisiae
và ảnh hưởng của việc trao đổi lên mức độ tổng hợp ARN và lên điểm bắt đầu phiên mã được
quan sát. Kết quả từ một tập hợp thí nghiệm được thể hiện trong bảng dưới đây. Các thành phần
cTFIIB, cTFIIE, cTFIIF , cTFIIH là yếu tố phiên mã ở S.cerevisiae. Các thành phần pTFIIB,
pTFIIE, pTFIIF, pTFIIH là yếu tố phiên mã ở S. pombe. Các thành phần cPol II và pPol II lần
lượt là ARN polymerase II ở S. cerevisiae và S. pombe. Bảng chỉ ra thành phần nào được bố
sung (+) hoặc không được bổ sung ( ) vào từng thí nghiệm.Trên bản gel điện di, sự hiện diện
của một bǎng cho biết ARN được tổng hợp và vị trí của bǎng cho biết nó là chiều dài được dự
đoán khi phiên mã bắt đầu từ 30 bp xuôi dòng hộp TATA hay từ 40 đến 120 bp xuôi dòng hộp
TATA.
a) Từ dữ liệu này, kết luận nào bạn có thể đưa ra về các thành phần xác định vị trí phiên mã
đầu tiên?
b) Kết luận nào bạn có thể đưa ra về tương tác giữa các thành phần khác nhau của bộ máy
phiên mã?
c) Đề xuất một cơ chế giải thích tại sao vị trí bắt đầu phiên mã ở S. pombe nằm khoảng 30 bp
xuôi dòng từ hộp TATA, trong khi vị trí bắt đầu phiên mã ở S. cerevisiae nằm khoảng 40 đến
120 bp xuôi dòng từ hộp TATA.
zoom-out-in

Vị trí của hộp TATA ở 2 loài nấm men, Saccharomyces pombe và Saccharomyces cerevisiae, khác nhau đáng kể . Hộp TATA của S.pombe nằm khoảng 30 nucleotide ngược dòng vị trí phiên mã đầu tiên, tương tự ở hầu hết tế bào nhân thực kháC. Tuy nhiên, hộp TATA của S. cerevisiae nằm khoảng 40 đến 120 nucleotide ngược dòng vị trí phiên mã đầu tiên. Để hiểu rõ hơn thứ gì đã quy định vị trí phiên mã đầu tiên ở những sinh vật này . các nhà nghiên cứu tại đại học Stanford thực hiện một chuỗi thí nghiệm để xác định các thành phần nào của bộ máy phiên mã ở 2 loài này có thể được trao đổi cho nhau . Trong các thí nghiệm , những nhân tố phiên mã khác nhau và ARN polymerase được trao đổi giữa S. pombe và S. cerevisiae và ảnh hưởng của việc trao đổi lên mức độ tổng hợp ARN và lên điểm bắt đầu phiên mã được quan sát. Kết quả từ một tập hợp thí nghiệm được thể hiện trong bảng dưới đây. Các thành phần cTFIIB, cTFIIE, cTFIIF , cTFIIH là yếu tố phiên mã ở S.cerevisiae. Các thành phần pTFIIB, pTFIIE, pTFIIF, pTFIIH là yếu tố phiên mã ở S. pombe. Các thành phần cPol II và pPol II lần lượt là ARN polymerase II ở S. cerevisiae và S. pombe. Bảng chỉ ra thành phần nào được bố sung (+) hoặc không được bổ sung ( ) vào từng thí nghiệm.Trên bản gel điện di, sự hiện diện của một bǎng cho biết ARN được tổng hợp và vị trí của bǎng cho biết nó là chiều dài được dự đoán khi phiên mã bắt đầu từ 30 bp xuôi dòng hộp TATA hay từ 40 đến 120 bp xuôi dòng hộp TATA. a) Từ dữ liệu này, kết luận nào bạn có thể đưa ra về các thành phần xác định vị trí phiên mã đầu tiên? b) Kết luận nào bạn có thể đưa ra về tương tác giữa các thành phần khác nhau của bộ máy phiên mã? c) Đề xuất một cơ chế giải thích tại sao vị trí bắt đầu phiên mã ở S. pombe nằm khoảng 30 bp xuôi dòng từ hộp TATA, trong khi vị trí bắt đầu phiên mã ở S. cerevisiae nằm khoảng 40 đến 120 bp xuôi dòng từ hộp TATA.

expert verifiedXác minh chuyên gia

Giải pháp

4.7(265 phiếu bầu)
avatar
Dũng Quânchuyên gia · Hướng dẫn 6 năm

Trả lời

a) Các thành phần cTFIIB, cTFIIE, cTFIIF, cTFIIH có thể xác định vị trí phiên mã đầu tiên ở S. pombe, trong khi các thành phần pTFIIB, pTFIIE, pTFIIF, pTFIIH có thể xác định vị trí phiên mã đầu tiên ở S. cerevisiae.<br />b) Các thành phần của bộ máy phiên mã có thể tương tác với nhau để xác định vị trí phiên mã đầu tiên.<br />c) Vị trí bắt đầu phiên mã ở S. pombe nằm khoảng 30 bp xuôi dòng từ hộp TATA có thể do các yếu tố phiên mã ở S. pombe có khả năng hoạt động hiệu quả hơn ở khoảng cách này so với S. cerevisiae.

Giải thích

a) Dựa trên dữ liệu từ bảng, ta có thể thấy rằng khi thay đổi các thành phần của bộ máy phiên mã, vị trí phiên mã đầu tiên cũng thay đổi. Điều này cho thấy rằng các thành phần này có vai trò quan trọng trong việc xác định vị trí phiên mã đầu tiên.<br />b) Các thành phần của bộ máy phiên mã có thể tương tác với nhau để xác định vị trí phiên mã đầu tiên. Điều này được chứng minh bằng việc thay đổi các thành phần này trong các thí nghiệm và quan sát sự thay đổi vị trí phiên mã đầu tiên.<br />c) Vị trí bắt đầu phiên mã ở S. pombe nằm khoảng 30 bp xuôi dòng từ hộp TATA có thể do các yếu tố phiên mã ở S. pombe có khả năng hoạt động hiệu quả hơn ở khoảng