Trang chủ
/
Sinh học
/
Đôi điều hiểu biết về sinh vật ngoại lai ở Việt Nam (1) Sinh  vật  ngoại  lai  (exotic,  allochthonous  species)  là  một  thuật ngữ để chỉ một loài sinh vật  (vi  sinh,  nấm,  thực  vật  hay  động  vật) từ một đơn vị địa lý hành chính  (vùng  lãnh  thổ)  khác  xâm  nhập  vào và gây ra những tác hại, tiêu  cực cho môi trường hay con người.  Ở cấp quốc gia thì gọi là sinh vật  ngoại lai cho quốc gia đó; ở cấp  vườn  quốc  gia  hay  khu  bảo  tồn  thiên nhiên thì gọi là sinh vật ngoại  lai cho vườn/khu bảo tồn đó... (2) Theo  quy  luật  tự  nhiên,  sinh  vật không bao giờ “đứng yên” một  chỗ. Chúng thường xuyên và liên  tục vận động, phát tán một cách  chủ động do quần thể tăng trưởng  mạnh mà mở rộng vùng phân bố  hoặc di cư hay du cư... Cũng có  thể chúng được phát tán nhờ gió,  dòng hải lưu, chim, thú... Đặc biệt,  nhiều  sinh  vật  đã  nhờ  con  người  để đến nay trở thành loài phân bố  toàn cầu như gián Mỹ ( Periplaneta  americana )  hay  nhiều  loài  côn  trùng và sinh vật khác.   (3) Nói chung, sinh vật không quan  tâm đến “quy định hành chính của  con người”. Khả năng phát tán và  tồn tại của một loài sinh vật cụ thể  tùy thuộc vào chính khả năng thích  nghi sinh thái của loài đó. Do vậy,  trong  sinh  thái  học  mới  có  khái  niệm  như  “loài  rộng  sinh  cảnh”  (habitat) hay “hẹp sinh cảnh”; “loài  rộng nhiệt hay hẹp nhiệt”, “loài đơn  thực” (monophaga), “loài hẹp thực”  (oligophaga)  hay  loài  “đa  thực”  (polyphaga)... Người ta thường sử  dụng  khái  niệm  “thế  năng  sinh  thái/tiềm  năng  sinh  thái”  hoặc  “ổ  sinh thái/tổ sinh thái” để đánh giá  khả  năng  thích  nghi,  tồn  tại  của  một loài sinh vật trong một khu vực  địa lý nào đó. Như vậy, mỗi loài có  giới hạn vùng phân bố riêng phụ  thuộc vào các yếu tố sinh thái mà  con người cần biết để bảo tồn, khai  thác hay khống chế. (4) Trong hơn 20 năm gần đây có  một bộ phận các nhà sinh học và  môi  trường  đã  quan  tâm  tới  sinh  vật ngoại lai. Đặc biệt từ khi bùng  nổ nạn ốc bươu vàng gây hại cho  nông nghiệp. Thật ra, từ khi thành  lập các cơ quan kiểm dịch động,  thực vật đã có danh sách những  loài động, thực vật cần kiểm dịch,  tức không cấp “visa” vào Việt Nam.  Bởi vì đó là những loài động, thực  vật ngoại lai, nếu chúng theo hàng  hóa (ví dụ mọt kho, cỏ dại...) xâm  nhập vào Việt Nam sẽ phát dịch,  khó ngăn chặn và gây tổn hại cho  kinh tế. Bản danh sách kiểm dịch  rất  cụ  thể,  chi  tiết  và  theo  tiêu  chuẩn quốc tế trong giao thương. (5) Từ thời Pháp thuộc, người Pháp  đã đưa một số cây trồng từ châu  Phi, châu Đại Dương vào Việt Nam.  Trong khoảng thời gian mấy chục  năm  gần  đây,  do  “mở  cửa”  phát  triển kinh tế, chúng ta du nhập một  số cây, con để phát triển kinh tế.  Ví dụ, cây Ca cao, Mắc ca, Cao  lương, Sachi hay cây Phong lá đỏ  trồng ở Hà Nội, cây Anh Đào Nhật  Bản  ở  Đà  Lạt...  Một  số  cá,  chim  và  thú  cảnh  cũng  được  du  nhập  như một thời chúng ta đã nuôi vẹt  Hồng Kông, chó Nhật...  Điều này  thể  hiện  việc  chuyển  giao  động,  thực vật từ nơi này đến nơi khác, từ  quốc gia này sang quốc gia khác  diễn ra thường xuyên và liên tục.  Vấn đề đáng quan tâm là cần có  trình  độ  khoa  học  và  công  nghệ  phù hợp để đáp ứng yêu cầu bảo  vệ môi trường và phát triển kinh tế  bền vững.  Hiện  nay  trên  mạng  internet,  nếu tra từ khóa “sinh vật ngoại lai  ở Việt Nam”, sẽ có rất nhiều thông  tin từ danh sách những loài nguy hại  chính, vùng phát triển gây hại và đề  xuất  các  biện  pháp  phòng  ngừa...  Ví  dụ,  Nguyễn  Hồng  Sơn  (2015)  có bài “Hiện trạng và đề xuất giải  pháp  phòng  ngừa  sinh  vật  ngoại  lai xâm hại ở Việt Nam” đã nêu đối  tượng cây trinh nữ (cây dương), ốc  bươu vàng, bèo lục bình là những  loài  sinh  vật  ngoại  lai  nguy  hiểm  và  đề  xuất  biện  pháp  ngăn  ngừa.  Hiếu  Công  (2017)  ở  Viện  Nghiên  cứu nuôi trồng thủy sản II đã cung  cấp danh sách 5 loài sinh vật ngoại  lai nguy hại ở Sóc Trăng là cá chim  trắng, lau kính, rô phi thường, rô phi  vằn và ốc bươu vàng... Tuy có nhiều  thông tin về sinh vật ngoại lai ở Việt  Nam, nhưng cho đến nay chưa có  công trình nghiên cứu hệ thống và  thống kê đầy đủ những loài sinh vật  ngoại lai gây hại và không gây hại ở  Việt Nam. Nhìn chung các kết quả  còn phân tán và phiến diện. (6) Dưới  đây chúng tôi  xin  chia sẻ  một vài mẩu chuyện đã được chứng  kiến để suy ngẫm và các cơ quan  nghiên cứu, các cơ quan quản lý có  thể tham khảo. Câu chuyện thứ nhất: cách đây  gần 30 năm, Cục Bảo vệ thực vật,  Bộ  Nông  nghiệp  (nay  là  Bộ  Nông  nghiệp và Phát triển nông thôn) đau  đầu  vì  những  người  buôn  thức  ăn  nuôi  chim  cảnh  đã  nhập  từ  Trung  Quốc về loại sâu bột (Tenebrio mo - litor). Loài này có trong danh sách  kiểm dịch thực vật. Bởi chúng có thể  ăn nhiều loại thức ăn như hạt hay bột  ngũ cốc, ngô hoặc quả tươi và rau  như cà rốt, khoai tây, đậu tương...  Ấu  trùng  loài  này  thường  được  sử  dụng làm thức ăn cho bò sát, cá, gia  cầm và cả con người. Ở Việt Nam,  sâu bột được coi là có nguồn gốc từ  Địa Trung Hải, nhưng chủ yếu nhập  khẩu từ  Trung Quốc  theo đường tiểu  ngạch. Một số báo địa  phương do  nhầm  lẫn  (không  phân  biệt  được  sâu bột với sâu quy) đã có những  bài  viết  cảnh  báo  cộng  đồng  về  nguy cơ tương tự như ốc bươu vàng.  Chúng tôi đã từng nuôi thử nghiệm  để thu con trưởng thành, nhưng thất  bại. Qua đây có thể thấy, mặc dù  nằm trong danh mục kiểm dịch thực  vật, nhưng sâu bột cũng có những  mặt lợi nếu chúng ta biết khai thác  hợp lý.   (7)  Câu chuyện thứ hai:   khoảng vào  năm  2001-2002,  chúng  tôi  nhận  được  yêu  cầu  của  Cục  Thú  y,  Bộ  Nông  nghiệp  và  Phát  triển  nông  thôn  lên  Lạng  Sơn.  Bởi  vì,  Trạm  kiểm  dịch  động  vật  ở  Lạng  Sơn  thu giữ 200 hộp nuôi loài Kiến gai  đen  (Polyrhachis  dives)  do  người  Trung Quốc ở bên kia biên giới gửi  sang, nhờ nuôi gia công 3 tháng, rồi  chuyển trở lại để họ thu “trứng kiến”  (đúng  ra  là  nhộng  kiến).  Thời  giá  lúc ấy 1 kg trứng kiến là 350 USD,  tương đương gần 8 triệu đồng. Khi  đó ở Lạng Sơn có việc  “tạm nhập,  tái  xuất”  kiến  đông  lạnh,  mỗi  lần  khoảng 5,5 tấn kiến. Chúng tôi đã  ở lại Lạng Sơn gần 1 tuần để điều  tra, khảo sát về Kiến gai đen giống  như mẫu kiến đang nuôi chuyển từ  Trung Quốc sang, có mặt trong tự  nhiên ở vùng Lạng Sơn hay không?  Kết quả chúng tôi tìm được một tổ  kiến ở ven suối, cách TP Lạng Sơn  khoảng  15  km.  Như  vậy,  Kiến  gai  đen đã phân bố ở Việt Nam từ trước.  Năm 2017, Bùi Thanh Vân đã bảo  vệ luận án tiến sỹ về kiến cũng tìm  thấy Kiến gai đen ở ngoại ô Hà Nội. (8) Trong  cuộc  họp  với  các  đơn  vị  hữu quan ở Hà Nội, chúng tôi có đề  nghị nên khoanh vùng để tiếp tục  nuôi Kiến gai đen, tranh thủ học tập  kỹ thuật nhân nuôi từ Trung Quốc.  Khi chúng tôi trở lại Lạng Sơn để  muốn  cùng  Trạm  kiểm  dịch  động  vật Lạng Sơn tiếp tục nhân nuôi và  theo dõi, học tập cách nhân nuôi và  khai thác Kiến gai đen, thì đáng tiếc  200 hộp nuôi kiến đã bị đốt vì áp  lực từ nhiều phía. Sau này có một  vài  nhóm  cán  bộ  khoa  học  thuộc  lĩnh vực hóa học và y học cổ truyền  biết được giá trị của Kiến gai đen đã  nghiên cứu và đưa ra sản phẩm bổ  dưỡng từ Kiến gai đen thu được ở  Vĩnh  Phúc.  Ở  các  nước  phát  triển  họ  rất  giỏi  trong  nhân  nuôi  động,  thực vật để khai thác, ví dụ nuôi côn  trùng  bằng  thức  ăn  nhân  tạo  (lập  công ty, thành hàng hóa và có cả  sách hướng dẫn đầy đủ) còn chúng  ta lại ít quan tâm đến vấn đề này. (9)  Câu chuyện thứ ba: khi làm luận  án  tiến  sỹ  ở  CHDC  Đức  (1969- 1973), chúng tôi đã nhân nuôi loài  mọt Cứng đốt ( Trogoderma grana - rium , một đối tượng được coi là rất  nguy  hiểm  vì  có  trong  danh  mục  kiểm dịch quốc tế) để nghiên cứu về  cơ chế giao tiếp sinh học của chúng.  Ở các nước phát triển người ta còn  du nhập một số loài bọ cánh cứng  ăn thịt (những đối tượng được coi là  nguy hại cho sản xuất) để tiêu diệt  đối tượng gây hại trên đồng ruộng  (biện pháp phòng trừ sinh học)... Ở  Việt Nam cũng đã du nhập một loài  côn trùng (có trong danh mục kiểm  dịch thực vật) để tiễu trừ sâu hại dừa  ở miền Trung. Điều này có nghĩa,  chúng ta cần phải tiếp cận và hiểu  biết những sinh vật lạ để sử dụng  hay khống chế một cách khoa học  và thông minh, chủ động. (10) Một  số  câu  chuyện  như  vậy  để  thấy đề tài sinh vật ngoại lai ở Việt  Nam rất đa dạng và phức tạp. Việc  nghiên cứu về những sinh vật này ở  nước ta hiện nay chưa đầy đủ, thiếu  cơ sở khoa học. Không thể một đơn  vị nghiên cứu, hay một nhà khoa học  có thể nắm bắt và giải quyết được  hết các vấn đề của sinh vật ngoại lai.  Do vậy, để sử dụng hay khống chế  chúng một cách khoa học, thiết nghĩ  cần  tập  hợp  một  lực  lượng  chuyên  gia thuộc các lĩnh vực liên quan tổng  điều  tra,  khảo  sát,  đánh  giá,  phân  tích để có giải pháp xử lý phù hợp,  hiệu quả. (Nguồn: “Đôi điều hiểu biết về sinh vật ngoại lai ở Việt Nam”, Bùi Công Hiển, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019) Nội dung chính của văn bản trên là? A. Những thông tin về các loài sinh vật ngoại lai ở Việt Nam B. Nguồn gốc của những loài sinh vật ngoại lai C. Sự phát triển của sinh vật ngoại lai D. Tác dụng của sinh vật ngoại lai

Câu hỏi

Đôi điều hiểu biết về sinh vật ngoại lai ở Việt Nam (1) Sinh  vật  ngoại  lai  (exotic,  allochthonous  species)  là  một  thuật ngữ để chỉ một loài sinh vật  (vi  sinh,  nấm,  thực  vật  hay  động  vật) từ một đơn vị địa lý hành chính  (vùng  lãnh  thổ)  khác  xâm  nhập  vào và gây ra những tác hại, tiêu  cực cho môi trường hay con người.  Ở cấp quốc gia thì gọi là sinh vật  ngoại lai cho quốc gia đó; ở cấp  vườn  quốc  gia  hay  khu  bảo  tồn  thiên nhiên thì gọi là sinh vật ngoại  lai cho vườn/khu bảo tồn đó... (2) Theo  quy  luật  tự  nhiên,  sinh  vật không bao giờ “đứng yên” một  chỗ. Chúng thường xuyên và liên  tục vận động, phát tán một cách  chủ động do quần thể tăng trưởng  mạnh mà mở rộng vùng phân bố  hoặc di cư hay du cư... Cũng có  thể chúng được phát tán nhờ gió,  dòng hải lưu, chim, thú... Đặc biệt,  nhiều  sinh  vật  đã  nhờ  con  người  để đến nay trở thành loài phân bố  toàn cầu như gián Mỹ ( Periplaneta  americana )  hay  nhiều  loài  côn  trùng và sinh vật khác.   (3) Nói chung, sinh vật không quan  tâm đến “quy định hành chính của  con người”. Khả năng phát tán và  tồn tại của một loài sinh vật cụ thể  tùy thuộc vào chính khả năng thích  nghi sinh thái của loài đó. Do vậy,  trong  sinh  thái  học  mới  có  khái  niệm  như  “loài  rộng  sinh  cảnh”  (habitat) hay “hẹp sinh cảnh”; “loài  rộng nhiệt hay hẹp nhiệt”, “loài đơn  thực” (monophaga), “loài hẹp thực”  (oligophaga)  hay  loài  “đa  thực”  (polyphaga)... Người ta thường sử  dụng  khái  niệm  “thế  năng  sinh  thái/tiềm  năng  sinh  thái”  hoặc  “ổ  sinh thái/tổ sinh thái” để đánh giá  khả  năng  thích  nghi,  tồn  tại  của  một loài sinh vật trong một khu vực  địa lý nào đó. Như vậy, mỗi loài có  giới hạn vùng phân bố riêng phụ  thuộc vào các yếu tố sinh thái mà  con người cần biết để bảo tồn, khai  thác hay khống chế. (4) Trong hơn 20 năm gần đây có  một bộ phận các nhà sinh học và  môi  trường  đã  quan  tâm  tới  sinh  vật ngoại lai. Đặc biệt từ khi bùng  nổ nạn ốc bươu vàng gây hại cho  nông nghiệp. Thật ra, từ khi thành  lập các cơ quan kiểm dịch động,  thực vật đã có danh sách những  loài động, thực vật cần kiểm dịch,  tức không cấp “visa” vào Việt Nam.  Bởi vì đó là những loài động, thực  vật ngoại lai, nếu chúng theo hàng  hóa (ví dụ mọt kho, cỏ dại...) xâm  nhập vào Việt Nam sẽ phát dịch,  khó ngăn chặn và gây tổn hại cho  kinh tế. Bản danh sách kiểm dịch  rất  cụ  thể,  chi  tiết  và  theo  tiêu  chuẩn quốc tế trong giao thương. (5) Từ thời Pháp thuộc, người Pháp  đã đưa một số cây trồng từ châu  Phi, châu Đại Dương vào Việt Nam.  Trong khoảng thời gian mấy chục  năm  gần  đây,  do  “mở  cửa”  phát  triển kinh tế, chúng ta du nhập một  số cây, con để phát triển kinh tế.  Ví dụ, cây Ca cao, Mắc ca, Cao  lương, Sachi hay cây Phong lá đỏ  trồng ở Hà Nội, cây Anh Đào Nhật  Bản  ở  Đà  Lạt...  Một  số  cá,  chim  và  thú  cảnh  cũng  được  du  nhập  như một thời chúng ta đã nuôi vẹt  Hồng Kông, chó Nhật...  Điều này  thể  hiện  việc  chuyển  giao  động,  thực vật từ nơi này đến nơi khác, từ  quốc gia này sang quốc gia khác  diễn ra thường xuyên và liên tục.  Vấn đề đáng quan tâm là cần có  trình  độ  khoa  học  và  công  nghệ  phù hợp để đáp ứng yêu cầu bảo  vệ môi trường và phát triển kinh tế  bền vững.  Hiện  nay  trên  mạng  internet,  nếu tra từ khóa “sinh vật ngoại lai  ở Việt Nam”, sẽ có rất nhiều thông  tin từ danh sách những loài nguy hại  chính, vùng phát triển gây hại và đề  xuất  các  biện  pháp  phòng  ngừa...  Ví  dụ,  Nguyễn  Hồng  Sơn  (2015)  có bài “Hiện trạng và đề xuất giải  pháp  phòng  ngừa  sinh  vật  ngoại  lai xâm hại ở Việt Nam” đã nêu đối  tượng cây trinh nữ (cây dương), ốc  bươu vàng, bèo lục bình là những  loài  sinh  vật  ngoại  lai  nguy  hiểm  và  đề  xuất  biện  pháp  ngăn  ngừa.  Hiếu  Công  (2017)  ở  Viện  Nghiên  cứu nuôi trồng thủy sản II đã cung  cấp danh sách 5 loài sinh vật ngoại  lai nguy hại ở Sóc Trăng là cá chim  trắng, lau kính, rô phi thường, rô phi  vằn và ốc bươu vàng... Tuy có nhiều  thông tin về sinh vật ngoại lai ở Việt  Nam, nhưng cho đến nay chưa có  công trình nghiên cứu hệ thống và  thống kê đầy đủ những loài sinh vật  ngoại lai gây hại và không gây hại ở  Việt Nam. Nhìn chung các kết quả  còn phân tán và phiến diện. (6) Dưới  đây chúng tôi  xin  chia sẻ  một vài mẩu chuyện đã được chứng  kiến để suy ngẫm và các cơ quan  nghiên cứu, các cơ quan quản lý có  thể tham khảo. Câu chuyện thứ nhất: cách đây  gần 30 năm, Cục Bảo vệ thực vật,  Bộ  Nông  nghiệp  (nay  là  Bộ  Nông  nghiệp và Phát triển nông thôn) đau  đầu  vì  những  người  buôn  thức  ăn  nuôi  chim  cảnh  đã  nhập  từ  Trung  Quốc về loại sâu bột (Tenebrio mo - litor). Loài này có trong danh sách  kiểm dịch thực vật. Bởi chúng có thể  ăn nhiều loại thức ăn như hạt hay bột  ngũ cốc, ngô hoặc quả tươi và rau  như cà rốt, khoai tây, đậu tương...  Ấu  trùng  loài  này  thường  được  sử  dụng làm thức ăn cho bò sát, cá, gia  cầm và cả con người. Ở Việt Nam,  sâu bột được coi là có nguồn gốc từ  Địa Trung Hải, nhưng chủ yếu nhập  khẩu từ  Trung Quốc  theo đường tiểu  ngạch. Một số báo địa  phương do  nhầm  lẫn  (không  phân  biệt  được  sâu bột với sâu quy) đã có những  bài  viết  cảnh  báo  cộng  đồng  về  nguy cơ tương tự như ốc bươu vàng.  Chúng tôi đã từng nuôi thử nghiệm  để thu con trưởng thành, nhưng thất  bại. Qua đây có thể thấy, mặc dù  nằm trong danh mục kiểm dịch thực  vật, nhưng sâu bột cũng có những  mặt lợi nếu chúng ta biết khai thác  hợp lý.   (7)  Câu chuyện thứ hai:   khoảng vào  năm  2001-2002,  chúng  tôi  nhận  được  yêu  cầu  của  Cục  Thú  y,  Bộ  Nông  nghiệp  và  Phát  triển  nông  thôn  lên  Lạng  Sơn.  Bởi  vì,  Trạm  kiểm  dịch  động  vật  ở  Lạng  Sơn  thu giữ 200 hộp nuôi loài Kiến gai  đen  (Polyrhachis  dives)  do  người  Trung Quốc ở bên kia biên giới gửi  sang, nhờ nuôi gia công 3 tháng, rồi  chuyển trở lại để họ thu “trứng kiến”  (đúng  ra  là  nhộng  kiến).  Thời  giá  lúc ấy 1 kg trứng kiến là 350 USD,  tương đương gần 8 triệu đồng. Khi  đó ở Lạng Sơn có việc  “tạm nhập,  tái  xuất”  kiến  đông  lạnh,  mỗi  lần  khoảng 5,5 tấn kiến. Chúng tôi đã  ở lại Lạng Sơn gần 1 tuần để điều  tra, khảo sát về Kiến gai đen giống  như mẫu kiến đang nuôi chuyển từ  Trung Quốc sang, có mặt trong tự  nhiên ở vùng Lạng Sơn hay không?  Kết quả chúng tôi tìm được một tổ  kiến ở ven suối, cách TP Lạng Sơn  khoảng  15  km.  Như  vậy,  Kiến  gai  đen đã phân bố ở Việt Nam từ trước.  Năm 2017, Bùi Thanh Vân đã bảo  vệ luận án tiến sỹ về kiến cũng tìm  thấy Kiến gai đen ở ngoại ô Hà Nội. (8) Trong  cuộc  họp  với  các  đơn  vị  hữu quan ở Hà Nội, chúng tôi có đề  nghị nên khoanh vùng để tiếp tục  nuôi Kiến gai đen, tranh thủ học tập  kỹ thuật nhân nuôi từ Trung Quốc.  Khi chúng tôi trở lại Lạng Sơn để  muốn  cùng  Trạm  kiểm  dịch  động  vật Lạng Sơn tiếp tục nhân nuôi và  theo dõi, học tập cách nhân nuôi và  khai thác Kiến gai đen, thì đáng tiếc  200 hộp nuôi kiến đã bị đốt vì áp  lực từ nhiều phía. Sau này có một  vài  nhóm  cán  bộ  khoa  học  thuộc  lĩnh vực hóa học và y học cổ truyền  biết được giá trị của Kiến gai đen đã  nghiên cứu và đưa ra sản phẩm bổ  dưỡng từ Kiến gai đen thu được ở  Vĩnh  Phúc.  Ở  các  nước  phát  triển  họ  rất  giỏi  trong  nhân  nuôi  động,  thực vật để khai thác, ví dụ nuôi côn  trùng  bằng  thức  ăn  nhân  tạo  (lập  công ty, thành hàng hóa và có cả  sách hướng dẫn đầy đủ) còn chúng  ta lại ít quan tâm đến vấn đề này. (9)  Câu chuyện thứ ba: khi làm luận  án  tiến  sỹ  ở  CHDC  Đức  (1969- 1973), chúng tôi đã nhân nuôi loài  mọt Cứng đốt ( Trogoderma grana - rium , một đối tượng được coi là rất  nguy  hiểm  vì  có  trong  danh  mục  kiểm dịch quốc tế) để nghiên cứu về  cơ chế giao tiếp sinh học của chúng.  Ở các nước phát triển người ta còn  du nhập một số loài bọ cánh cứng  ăn thịt (những đối tượng được coi là  nguy hại cho sản xuất) để tiêu diệt  đối tượng gây hại trên đồng ruộng  (biện pháp phòng trừ sinh học)... Ở  Việt Nam cũng đã du nhập một loài  côn trùng (có trong danh mục kiểm  dịch thực vật) để tiễu trừ sâu hại dừa  ở miền Trung. Điều này có nghĩa,  chúng ta cần phải tiếp cận và hiểu  biết những sinh vật lạ để sử dụng  hay khống chế một cách khoa học  và thông minh, chủ động. (10) Một  số  câu  chuyện  như  vậy  để  thấy đề tài sinh vật ngoại lai ở Việt  Nam rất đa dạng và phức tạp. Việc  nghiên cứu về những sinh vật này ở  nước ta hiện nay chưa đầy đủ, thiếu  cơ sở khoa học. Không thể một đơn  vị nghiên cứu, hay một nhà khoa học  có thể nắm bắt và giải quyết được  hết các vấn đề của sinh vật ngoại lai.  Do vậy, để sử dụng hay khống chế  chúng một cách khoa học, thiết nghĩ  cần  tập  hợp  một  lực  lượng  chuyên  gia thuộc các lĩnh vực liên quan tổng  điều  tra,  khảo  sát,  đánh  giá,  phân  tích để có giải pháp xử lý phù hợp,  hiệu quả. (Nguồn: “Đôi điều hiểu biết về sinh vật ngoại lai ở Việt Nam”, Bùi Công Hiển, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019) Nội dung chính của văn bản trên là? A. Những thông tin về các loài sinh vật ngoại lai ở Việt Nam B. Nguồn gốc của những loài sinh vật ngoại lai C. Sự phát triển của sinh vật ngoại lai D. Tác dụng của sinh vật ngoại lai

expert verifiedXác minh chuyên gia

Giải pháp

4.1(239 phiếu bầu)
avatar
Phong Đạtchuyên gia · Hướng dẫn 6 năm

Trả lời

<div class="question"><br /><div class="result"><br /><p style="color: #44a500;font-weight: 700; font-size: 22px; padding-bottom: 5px">Nội dung chính của văn bản trên trình bày những thông tin về các loài sinh vật ngoại lai ở Việt Nam.</p><p style="color: #e29000; font-weight: 700; font-size: 22px; ">Giải thích:</p><br /><p>Đáp án cần chọn là: A</p><br /></div><br /></div>