Trang chủ
/
Sinh học
/
Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không? (1) Thế  giới  côn  trùng  vô  cùng  phong  phú  và  đa  dạng,  chúng  là  sản  phẩm  kỳ  diệu  của  thiên  nhiên. Trong tự nhiên, không lớp  động vật nào có thể so sánh với  côn trùng về độ phong phú đến  kỳ  lạ  của  thành  phần  loài.  Các  nhà khoa học ước tính côn trùng  có  tới  7-8  triệu  loài,  nhưng  mới  chỉ có khoảng 1 triệu loài đã được  xác định. Để bù lại kích thước cơ  thể nhỏ bé, côn trùng có sức sinh  sản  và  phát  triển  cực  nhiều  và  cực nhanh, tạo ra sinh khối lớn.   (2) Theo dự báo của các nhà côn  trùng  học  Hà  Lan  (2012),  sâu  Gạo  hay  sâu  Quy  (Zophobas  morio)  có  lẽ  không  xa  sẽ  soán  ngôi  tất  cả  các  loại  thực  phẩm  dinh dưỡng như thịt gà, bò, lợn,  sữa...  để  trở  thành  nguồn  cung  cấp protein chính cho loài người  trong  tương  lai.  Việc  nuôi  sâu  Gạo  chỉ  chiếm  10%  diện  tích  đất so với nuôi bò, 30% diện tích  dành cho việc  chăn nuôi lợn, 40%  diện tích dành  nuôi gà, trong khi  mức cung cấp  chất đạm  của loài  sâu này lại cao tương đương với  các loại thực phẩm nêu trên. Từ  hàng chục năm qua, người Trung  Quốc đã nuôi nhân tạo kiến Gai  đen  (Polyrhachis  dives)  để  thu  trứng kiến (thật ra là nhộng kiến)  bán với giá 350 USD/kg hay chế  biến thành rượu kiến, cũng như ở  Papua New Guinea, người nông  dân lập trang trại nuôi bướm xuất  khẩu  và  thu  lợi  bình  quân  đạt  5.000  USD/người/năm...  Trong  khi đó thực tế ở Việt Nam, đã từ  lâu người dân vẫn thường xuyên  thu  bắt  côn  trùng  tự  phát  theo  cách tận diệt về làm thực phẩm  hay thuốc chữa bệnh. (3) Người Mexico dìm những tấm  vải xuống nước để Cà cuống đẻ  hàng triệu trứng vào đó, rồi thu  trứng đem phơi khô và dùng làm  bánh ngọt. Ở Ấn Độ, nhiều bộ tộc  đã ăn kiến, châu chấu, ấu trùng  và  nhộng  của  một  số  loài  cánh  cứng, bướm, ong... Ở Irắc, hàng  năm có khoảng 35 tấn côn trùng  được  thu  thập  và  bán  trên  thị  trường để dùng làm thực phẩm. Ở  các nước công nghiệp phát triển  (Mỹ, Hà Lan), người ta chế biến  côn trùng thành đồ hộp hay đặt  thêm  vào  các  loại  bánh.  Ngoài  việc khai thác côn trùng làm thực  phẩm, hướng khai thác côn trùng  phục  vụ  du  lịch  và  làm  đồ  mỹ  nghệ (hình 1) rất phát triển. Hàng  năm, Hồng Kông sử dụng khoảng  gần 1 triệu cá thể côn trùng để  làm các sản phẩm trang sức hoặc  đồ tiện dụng. (4) Theo tổ chức Lương thực nông  nghiệp  Liên  hợp  quốc  (FAO),  hiện  nay  ở  các  quốc  gia  phát  triển  như  Pháp,  Ý,  Nhật  Bản...  và  các  nước  châu  Á  như  Thái  Lan,  Trung  Quốc,  Campuchia,  Malaysia, Singapore... côn trùng  được  sử  dụng  làm  thức  ăn  rất  nhiều, được bày bán dọc đường  và trong các nhà hàng lớn. Đồng  thời, tổ chức FAO cũng đưa ra dự  báo côn trùng sẽ là nguồn thực  phẩm chính trong tương lai. (5) Julieta  Ramos  (2014)  cho  rằng, trên thế giới có ít nhất 3.000  nhóm sắc tộc ở 113 quốc gia ăn  côn  trùng  và  số  lượng  loài  côn  trùng có thể ăn được là khoảng  1.400 loài. Các công bố khoa học  gần  đây  cho  biết,  số  lượng  loài  côn trùng làm thực phẩm ở Trung  Quốc là 40 loài, Thái Lan là 134,  Myanmar là 15, Indonesia là 30  và Philippine là 19 loài. (6) Bên cạnh đó, việc xây tạo các  vườn  bướm  hay  nhà  bướm  để  khách tham quan cũng phát triển  ở nhiều nước Đông Nam Á (hình  2). Từ rất lâu đã hình thành các  công  ty  buôn  bán  côn  trùng  và  người ta gọi là “nhánh kinh tế côn  trùng”. (7) Trong  khoảng  hơn  10  năm  gần đây, một số cán bộ khoa học  trẻ đã quan tâm nghiên cứu các  đối  tượng  côn  trùng  có  ý  nghĩa  kinh tế như luận án tiến sỹ của  Phan  Anh  Tuấn  (2006)  về  sâu  Chít   ( Brihaspa   atrostigmella Moore),  Vũ  Văn  Liên  (2008)  về  các  loài  Bướm  (Lepidoptera),  Hoàng   Thị   Hồng   Nghiệp  (2015)  về  sâu  Tre  ( Omphisa   fuscidentalis ),  Bùi  Thanh  Vân  (2018)  về  kiến  (Formicidae),  Phạm Hữu Hùng (2019) về Cánh  cứng (Coleoptera) và những kết  quả  đề  tài  nghiên  cứu  về  nhân  nuôi  Cà  cuống  của  Vũ  Quang  Mạnh (1999), côn trùng làm thực  phẩm  của  Phạm  Quỳnh  Mai  (2015)... Kết quả nghiên cứu về  côn  trùng  làm  thực  phẩm,  dược  liệu phải kể đến nghiên cứu của  Vũ  Quốc  Trung  (2007)  đã  nêu  chi tiết 39 loài côn trùng được sử  dụng trong y học cổ truyền của  Việt Nam như bộ Gián ( Blattodea hay  Dyctioptera ) có Gián phương  Đông ( Blatta orientalis ), Gián đất  ( Eupolyphaga sinensis ); bộ Cánh  cứng (Coleoptera) có bọ Thẹt, bọ  Xịt, bọ Đánh rắm ( Pheropsophys  jessoensis ),   Xén   tóc   hoa  ( Anoplophora  chinensis ),  Xén  tóc  dâu  ( Apriona  germari ),  Xén  tóc  nâu  ( Nadezhdiella  cantori ),  Đom đóm ( Luciola vitticollis ), Ban  miêu  đen  vạch  trắng  ( Epicauta  gorhami ), Ban miêu khoang vàng  ( Mylabris  phalerata ),  bọ  hung  (con đực) ( Catharsius molussus ),  Sùng đất, Đuông dừa ( Holotrichia  morosa ),  bọ  Dừa  ( Lepidiota  bimaculata ), Mọt khuẩn đen, con  Quy  ( Alphitobius  diaperinus )...  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2017)  đã  cung  cấp  danh  sách  34  loài  Hình 2. Một kiểu nhà bướm. 49 Soá 10 naêm 2019 Khoa học và đời sống côn  trùng  lâm  nghiệp  làm  thực  phẩm  có  thể  ăn  được  ở  vùng  Tây  Bắc  nước  ta.  Cụ  thể,  bộ  Chuồn  chuồn  (Odonata)  có  loài  Chuồn  chuồn  ớt  ( Crocothemis  servilia ); bộ bọ Ngựa (Mantodea)  có  bọ  Ngựa  xanh  ( Hierodula  patellifera )  và  bọ  Ngựa  Trung  Quốc  ( Tenodera  sinensis );  bộ  Mối  (Isoptera)  có  các  loài  mối  đất thuộc giống Macrotermes và  Odontotermes;  bộ  Cánh  thẳng  (Orthoptera)  có  Cào  cào  nhỏ  ( Atractomorpha  sinensis ),  Châu  chấu lúa ( Oxya chinensis ), Muỗm  xanh ( Euconocephalus incertus ),  Muỗm   nâu   ( Euconocephalus  broughtoni ),  Dế  dũi  ( Gryllotalpa  orientalis ),  Dế  mèn  nâu  lớn  ( Tarbinskiellus    portentosus )  và  Dế  mèn  nâu  nhỏ  ( Gryllus  testaceus ) ...   Với  các  loài  côn  trùng  sử  dụng  làm  vật  liệu  văn  hóa  phẩm,  giáo  dục  và  du  lịch  có  thể  đạt  tới  hàng  nghìn  loài  thuộc rất nhiều bộ, đặc biệt là bộ  Cánh  cứng  (Coleoptera),  Cánh  vảy (Lepidoptera), Chuồn chuồn  (Odonata)...  tùy  theo  vùng  sinh  thái và khả năng nhân nuôi. (8) Từ  các  kết  quả  nghiên  cứu  khác  nhau,  có  thể  nhận  thấy,  nhiều loài côn trùng có ý nghĩa  kinh tế là những loài đặc hữu và  đang  bị  khai  thác  một  cách  tận  diệt. Nếu không được tổ chức bảo  tồn  bằng  cách  nhân  nuôi  khoa  học và tổ chức khai thác hợp lý,  chắc chắn sẽ bị tuyệt chủng. (9) Sâu  Chít,  sâu  Tre  là  những  loài  đặc  hữu  cho  vùng  núi  Tây  Bắc; kiến Gai đen, ong Đất, ong  Khoái là những loài đặc hữu cho  vùng núi phía Bắc; các loài bướm  Phượng  như  Troides  helena,  Troides  aeacus   và  Teinopalpus  aureus ...  cũng  là  những  loài  đặc  hữu  cho  một  vài  nơi  núi  cao. Thậm chí ngay một số loài  gây hại như sâu Đuông hại Dừa  ( Rhynchophorus ferrugineus ), bọ  Dừa nhỏ ( Diocalandrafrumenti )...  chỉ phát triển ở miền Nam cũng  có  thể  đưa  vào  danh  sách  các  loài cần bảo tồn và khai thác. Tất  nhiên có nhiều loài có tên trong  Sách đỏ Việt Nam hay Công ước  quốc  tế  về  buôn  bán  các  loại  động,  thực  vật  hoang  dã  nguy  cấp  (CITES)  vẫn  đang  bị  người  dân  “vô  tư”  khai  thác.  Bởi  họ  không được ai phổ biến và giúp  đỡ  phương  pháp  nhân  nuôi  để  khai thác hợp lý, bền vững. (10) Có thể nói, cho đến nay lĩnh  vực  bảo  tồn  và  khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  chưa  được  quan tâm đúng mức so với giá trị  của nó trong tự nhiên và với con  người.  Do  vậy,  để  côn  trùng  có  thể “phục vụ” con người tốt hơn  như khả năng vốn có, chúng tôi  xin nêu một vài gợi ý sau: Một  là ,   kinh  nghiệm  ở  nhiều  nước  cho  thấy,  khai  thác  tài  nguyên  sinh  vật  nói  chung,  tài  nguyên côn trùng nói riêng một  cách khoa học là con đường bảo  tồn  tích  cực  và  bền  vững.  Do  vậy, Cục Bảo tồn thiên nhiên và  Đa dạng sinh học thuộc Bộ Tài  nguyên và Môi trường cũng như  các cơ quan quản lý khoa học có  liên quan ở nước ta nên có những  buổi trao đổi khoa học (seminar)  hay tổ chức các đề tài nghiên cứu  về lĩnh vực “bảo tồn, khai thác tài  nguyên côn trùng”. Hai  là ,   nên  lồng  ghép  vào  chương  trình  khởi  nghiệp  hoặc  khuyến khích doanh nghiệp đầu  tư tổ chức liên kết giữa nhà khoa  học, nhà nông (đặc biệt đồng bào  vùng núi) trong việc bảo tồn và  khai thác tài nguyên côn trùng...  Bởi với các kết quả nghiên cứu  như của Phan Anh Tuấn (2006),  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2015),  Bùi Thanh Vân (2018)... nêu trên  để có thể khai thác hiệu quả và  tạo ra những sản phẩm có giá trị  thì cái thiếu chính là vốn đầu tư  và tổ chức chuỗi sản phẩm. Nhà  khoa  học  chỉ  có  chuyên  môn,  nhà  nông  có  cơ  sở  vật  chất  để  phát triển bảo tồn và khai thác tài  nguyên côn trùng nên cần phải  có  “nhà  thứ  3,  thứ  4...”  có  điều  kiện tổ chức gắn kết họ lại để trở  thành lực lượng bảo tồn và khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  khoa  học, có hiệu quả và bền vững.   Ba là ,  tài nguyên côn trùng chủ  yếu tập trung ở miền núi và vùng  nông nghiệp, đặc biệt ở các vườn  quốc  gia  và  khu  bảo  tồn  thiên  nhiên. Do vậy, nên đưa vào các  chương trình phát triển kinh tế -  xã hội miền núi hoặc nông thôn  nội  dung  “Bảo tồn và khai thác  tài  nguyên  côn  trùng”  cụ  thể  ở  các địa phương, giúp người quản  lý và người dân biết làm giàu từ  tài nguyên thiên nhiên một cách  khoa học và  bền vững. (Nguồn: “Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?”, Bùi Công Hiểu, Trịnh Văn Hạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 10, năm 2019) Nội dung chính của văn bản trên là? A. Những gợi ý trong bảo tồn, khai thác côn trùng B. Nguy cơ tuyệt chủng của một số loài côn trùng tại Việt Nam C. Những nguy hại khi côn trùng ngày càng dày đặc trên lãnh thổ D. Những lợi ích của côn trùng đối với cuộc sống

Câu hỏi

Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không? (1) Thế  giới  côn  trùng  vô  cùng  phong  phú  và  đa  dạng,  chúng  là  sản  phẩm  kỳ  diệu  của  thiên  nhiên. Trong tự nhiên, không lớp  động vật nào có thể so sánh với  côn trùng về độ phong phú đến  kỳ  lạ  của  thành  phần  loài.  Các  nhà khoa học ước tính côn trùng  có  tới  7-8  triệu  loài,  nhưng  mới  chỉ có khoảng 1 triệu loài đã được  xác định. Để bù lại kích thước cơ  thể nhỏ bé, côn trùng có sức sinh  sản  và  phát  triển  cực  nhiều  và  cực nhanh, tạo ra sinh khối lớn.   (2) Theo dự báo của các nhà côn  trùng  học  Hà  Lan  (2012),  sâu  Gạo  hay  sâu  Quy  (Zophobas  morio)  có  lẽ  không  xa  sẽ  soán  ngôi  tất  cả  các  loại  thực  phẩm  dinh dưỡng như thịt gà, bò, lợn,  sữa...  để  trở  thành  nguồn  cung  cấp protein chính cho loài người  trong  tương  lai.  Việc  nuôi  sâu  Gạo  chỉ  chiếm  10%  diện  tích  đất so với nuôi bò, 30% diện tích  dành cho việc  chăn nuôi lợn, 40%  diện tích dành  nuôi gà, trong khi  mức cung cấp  chất đạm  của loài  sâu này lại cao tương đương với  các loại thực phẩm nêu trên. Từ  hàng chục năm qua, người Trung  Quốc đã nuôi nhân tạo kiến Gai  đen  (Polyrhachis  dives)  để  thu  trứng kiến (thật ra là nhộng kiến)  bán với giá 350 USD/kg hay chế  biến thành rượu kiến, cũng như ở  Papua New Guinea, người nông  dân lập trang trại nuôi bướm xuất  khẩu  và  thu  lợi  bình  quân  đạt  5.000  USD/người/năm...  Trong  khi đó thực tế ở Việt Nam, đã từ  lâu người dân vẫn thường xuyên  thu  bắt  côn  trùng  tự  phát  theo  cách tận diệt về làm thực phẩm  hay thuốc chữa bệnh. (3) Người Mexico dìm những tấm  vải xuống nước để Cà cuống đẻ  hàng triệu trứng vào đó, rồi thu  trứng đem phơi khô và dùng làm  bánh ngọt. Ở Ấn Độ, nhiều bộ tộc  đã ăn kiến, châu chấu, ấu trùng  và  nhộng  của  một  số  loài  cánh  cứng, bướm, ong... Ở Irắc, hàng  năm có khoảng 35 tấn côn trùng  được  thu  thập  và  bán  trên  thị  trường để dùng làm thực phẩm. Ở  các nước công nghiệp phát triển  (Mỹ, Hà Lan), người ta chế biến  côn trùng thành đồ hộp hay đặt  thêm  vào  các  loại  bánh.  Ngoài  việc khai thác côn trùng làm thực  phẩm, hướng khai thác côn trùng  phục  vụ  du  lịch  và  làm  đồ  mỹ  nghệ (hình 1) rất phát triển. Hàng  năm, Hồng Kông sử dụng khoảng  gần 1 triệu cá thể côn trùng để  làm các sản phẩm trang sức hoặc  đồ tiện dụng. (4) Theo tổ chức Lương thực nông  nghiệp  Liên  hợp  quốc  (FAO),  hiện  nay  ở  các  quốc  gia  phát  triển  như  Pháp,  Ý,  Nhật  Bản...  và  các  nước  châu  Á  như  Thái  Lan,  Trung  Quốc,  Campuchia,  Malaysia, Singapore... côn trùng  được  sử  dụng  làm  thức  ăn  rất  nhiều, được bày bán dọc đường  và trong các nhà hàng lớn. Đồng  thời, tổ chức FAO cũng đưa ra dự  báo côn trùng sẽ là nguồn thực  phẩm chính trong tương lai. (5) Julieta  Ramos  (2014)  cho  rằng, trên thế giới có ít nhất 3.000  nhóm sắc tộc ở 113 quốc gia ăn  côn  trùng  và  số  lượng  loài  côn  trùng có thể ăn được là khoảng  1.400 loài. Các công bố khoa học  gần  đây  cho  biết,  số  lượng  loài  côn trùng làm thực phẩm ở Trung  Quốc là 40 loài, Thái Lan là 134,  Myanmar là 15, Indonesia là 30  và Philippine là 19 loài. (6) Bên cạnh đó, việc xây tạo các  vườn  bướm  hay  nhà  bướm  để  khách tham quan cũng phát triển  ở nhiều nước Đông Nam Á (hình  2). Từ rất lâu đã hình thành các  công  ty  buôn  bán  côn  trùng  và  người ta gọi là “nhánh kinh tế côn  trùng”. (7) Trong  khoảng  hơn  10  năm  gần đây, một số cán bộ khoa học  trẻ đã quan tâm nghiên cứu các  đối  tượng  côn  trùng  có  ý  nghĩa  kinh tế như luận án tiến sỹ của  Phan  Anh  Tuấn  (2006)  về  sâu  Chít   ( Brihaspa   atrostigmella Moore),  Vũ  Văn  Liên  (2008)  về  các  loài  Bướm  (Lepidoptera),  Hoàng   Thị   Hồng   Nghiệp  (2015)  về  sâu  Tre  ( Omphisa   fuscidentalis ),  Bùi  Thanh  Vân  (2018)  về  kiến  (Formicidae),  Phạm Hữu Hùng (2019) về Cánh  cứng (Coleoptera) và những kết  quả  đề  tài  nghiên  cứu  về  nhân  nuôi  Cà  cuống  của  Vũ  Quang  Mạnh (1999), côn trùng làm thực  phẩm  của  Phạm  Quỳnh  Mai  (2015)... Kết quả nghiên cứu về  côn  trùng  làm  thực  phẩm,  dược  liệu phải kể đến nghiên cứu của  Vũ  Quốc  Trung  (2007)  đã  nêu  chi tiết 39 loài côn trùng được sử  dụng trong y học cổ truyền của  Việt Nam như bộ Gián ( Blattodea hay  Dyctioptera ) có Gián phương  Đông ( Blatta orientalis ), Gián đất  ( Eupolyphaga sinensis ); bộ Cánh  cứng (Coleoptera) có bọ Thẹt, bọ  Xịt, bọ Đánh rắm ( Pheropsophys  jessoensis ),   Xén   tóc   hoa  ( Anoplophora  chinensis ),  Xén  tóc  dâu  ( Apriona  germari ),  Xén  tóc  nâu  ( Nadezhdiella  cantori ),  Đom đóm ( Luciola vitticollis ), Ban  miêu  đen  vạch  trắng  ( Epicauta  gorhami ), Ban miêu khoang vàng  ( Mylabris  phalerata ),  bọ  hung  (con đực) ( Catharsius molussus ),  Sùng đất, Đuông dừa ( Holotrichia  morosa ),  bọ  Dừa  ( Lepidiota  bimaculata ), Mọt khuẩn đen, con  Quy  ( Alphitobius  diaperinus )...  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2017)  đã  cung  cấp  danh  sách  34  loài  Hình 2. Một kiểu nhà bướm. 49 Soá 10 naêm 2019 Khoa học và đời sống côn  trùng  lâm  nghiệp  làm  thực  phẩm  có  thể  ăn  được  ở  vùng  Tây  Bắc  nước  ta.  Cụ  thể,  bộ  Chuồn  chuồn  (Odonata)  có  loài  Chuồn  chuồn  ớt  ( Crocothemis  servilia ); bộ bọ Ngựa (Mantodea)  có  bọ  Ngựa  xanh  ( Hierodula  patellifera )  và  bọ  Ngựa  Trung  Quốc  ( Tenodera  sinensis );  bộ  Mối  (Isoptera)  có  các  loài  mối  đất thuộc giống Macrotermes và  Odontotermes;  bộ  Cánh  thẳng  (Orthoptera)  có  Cào  cào  nhỏ  ( Atractomorpha  sinensis ),  Châu  chấu lúa ( Oxya chinensis ), Muỗm  xanh ( Euconocephalus incertus ),  Muỗm   nâu   ( Euconocephalus  broughtoni ),  Dế  dũi  ( Gryllotalpa  orientalis ),  Dế  mèn  nâu  lớn  ( Tarbinskiellus    portentosus )  và  Dế  mèn  nâu  nhỏ  ( Gryllus  testaceus ) ...   Với  các  loài  côn  trùng  sử  dụng  làm  vật  liệu  văn  hóa  phẩm,  giáo  dục  và  du  lịch  có  thể  đạt  tới  hàng  nghìn  loài  thuộc rất nhiều bộ, đặc biệt là bộ  Cánh  cứng  (Coleoptera),  Cánh  vảy (Lepidoptera), Chuồn chuồn  (Odonata)...  tùy  theo  vùng  sinh  thái và khả năng nhân nuôi. (8) Từ  các  kết  quả  nghiên  cứu  khác  nhau,  có  thể  nhận  thấy,  nhiều loài côn trùng có ý nghĩa  kinh tế là những loài đặc hữu và  đang  bị  khai  thác  một  cách  tận  diệt. Nếu không được tổ chức bảo  tồn  bằng  cách  nhân  nuôi  khoa  học và tổ chức khai thác hợp lý,  chắc chắn sẽ bị tuyệt chủng. (9) Sâu  Chít,  sâu  Tre  là  những  loài  đặc  hữu  cho  vùng  núi  Tây  Bắc; kiến Gai đen, ong Đất, ong  Khoái là những loài đặc hữu cho  vùng núi phía Bắc; các loài bướm  Phượng  như  Troides  helena,  Troides  aeacus   và  Teinopalpus  aureus ...  cũng  là  những  loài  đặc  hữu  cho  một  vài  nơi  núi  cao. Thậm chí ngay một số loài  gây hại như sâu Đuông hại Dừa  ( Rhynchophorus ferrugineus ), bọ  Dừa nhỏ ( Diocalandrafrumenti )...  chỉ phát triển ở miền Nam cũng  có  thể  đưa  vào  danh  sách  các  loài cần bảo tồn và khai thác. Tất  nhiên có nhiều loài có tên trong  Sách đỏ Việt Nam hay Công ước  quốc  tế  về  buôn  bán  các  loại  động,  thực  vật  hoang  dã  nguy  cấp  (CITES)  vẫn  đang  bị  người  dân  “vô  tư”  khai  thác.  Bởi  họ  không được ai phổ biến và giúp  đỡ  phương  pháp  nhân  nuôi  để  khai thác hợp lý, bền vững. (10) Có thể nói, cho đến nay lĩnh  vực  bảo  tồn  và  khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  chưa  được  quan tâm đúng mức so với giá trị  của nó trong tự nhiên và với con  người.  Do  vậy,  để  côn  trùng  có  thể “phục vụ” con người tốt hơn  như khả năng vốn có, chúng tôi  xin nêu một vài gợi ý sau: Một  là ,   kinh  nghiệm  ở  nhiều  nước  cho  thấy,  khai  thác  tài  nguyên  sinh  vật  nói  chung,  tài  nguyên côn trùng nói riêng một  cách khoa học là con đường bảo  tồn  tích  cực  và  bền  vững.  Do  vậy, Cục Bảo tồn thiên nhiên và  Đa dạng sinh học thuộc Bộ Tài  nguyên và Môi trường cũng như  các cơ quan quản lý khoa học có  liên quan ở nước ta nên có những  buổi trao đổi khoa học (seminar)  hay tổ chức các đề tài nghiên cứu  về lĩnh vực “bảo tồn, khai thác tài  nguyên côn trùng”. Hai  là ,   nên  lồng  ghép  vào  chương  trình  khởi  nghiệp  hoặc  khuyến khích doanh nghiệp đầu  tư tổ chức liên kết giữa nhà khoa  học, nhà nông (đặc biệt đồng bào  vùng núi) trong việc bảo tồn và  khai thác tài nguyên côn trùng...  Bởi với các kết quả nghiên cứu  như của Phan Anh Tuấn (2006),  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2015),  Bùi Thanh Vân (2018)... nêu trên  để có thể khai thác hiệu quả và  tạo ra những sản phẩm có giá trị  thì cái thiếu chính là vốn đầu tư  và tổ chức chuỗi sản phẩm. Nhà  khoa  học  chỉ  có  chuyên  môn,  nhà  nông  có  cơ  sở  vật  chất  để  phát triển bảo tồn và khai thác tài  nguyên côn trùng nên cần phải  có  “nhà  thứ  3,  thứ  4...”  có  điều  kiện tổ chức gắn kết họ lại để trở  thành lực lượng bảo tồn và khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  khoa  học, có hiệu quả và bền vững.   Ba là ,  tài nguyên côn trùng chủ  yếu tập trung ở miền núi và vùng  nông nghiệp, đặc biệt ở các vườn  quốc  gia  và  khu  bảo  tồn  thiên  nhiên. Do vậy, nên đưa vào các  chương trình phát triển kinh tế -  xã hội miền núi hoặc nông thôn  nội  dung  “Bảo tồn và khai thác  tài  nguyên  côn  trùng”  cụ  thể  ở  các địa phương, giúp người quản  lý và người dân biết làm giàu từ  tài nguyên thiên nhiên một cách  khoa học và  bền vững. (Nguồn: “Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?”, Bùi Công Hiểu, Trịnh Văn Hạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 10, năm 2019) Nội dung chính của văn bản trên là? A. Những gợi ý trong bảo tồn, khai thác côn trùng B. Nguy cơ tuyệt chủng của một số loài côn trùng tại Việt Nam C. Những nguy hại khi côn trùng ngày càng dày đặc trên lãnh thổ D. Những lợi ích của côn trùng đối với cuộc sống

expert verifiedXác minh chuyên gia

Giải pháp

4.0(195 phiếu bầu)
avatar
Hoàng Anh Tùngngười xuất sắc · Hướng dẫn 8 năm

Trả lời

<div class="question"><br /><div class="result"><br /><p style="color: #44a500;font-weight: 700; font-size: 22px; padding-bottom: 5px">Nội dung chính của văn bản trên trình bày những gợi ý trong bảo tồn, khai thác côn trùng.</p><p style="color: #e29000; font-weight: 700; font-size: 22px; ">Giải thích:</p><br /><p>Đáp án cần chọn là: A</p><br /></div><br /></div>