Trang chủ
/
Sinh học
/
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi: Trị liệu miễn dịch trong điều trị dị ứng (1) Các bệnh dị ứng rất phổ biến  ở  các  nước  phát  triển và đang có xu thế  tăng  lên  hàng  năm.  Ở các nền kinh tế đang phát triển,  mặc dù tỷ lệ người mắc bệnh dị ứng  thấp hơn nhưng cũng có xu hướng  gia tăng. Ở Việt Nam, tuy chưa có  thống kê cụ thể nhưng số người mắc  bệnh này được phát hiện ngày càng  nhiều. Lâu nay, hầu hết các thuốc  chữa trị các bệnh dị ứng mới chỉ tập  trung vào điều trị triệu chứng, chỉ có  tác dụng chữa trị trong một thời gian  nhất định. Các biện pháp chữa trị  can thiệp dựa vào cơ chế hình thành  và  phát  triển  của  bệnh  hiện  đang  được tập trung nghiên cứu và ứng  dụng.  Trong  đó,  trị  liệu  miễn  dịch  là  một  phương  pháp  được  nghiên  cứu sâu rộng và hứa hẹn nhiều tiềm  năng trong tương lai gần.  Phản ứng quá mức  của  cơ  thể  chúng  ta  trước  những  dị  nguyên  vô  hại  như:  phấn  hoa,  lông  chó  mèo,  mạt  bụi  nhà...  Các  loại bệnh dị ứng thường gặp là hen  suyễn,  viêm  mũi,  viêm  da,  dị  ứng  thực  phẩm,  sốc  phản  vệ... (3) Theo cơ chế phản ứng miễn dịch  và sự tham gia khác nhau giữa các  thành phần của hệ miễn dịch, người  ta phân ra 4 loại phản ứng dị ứng  khác nhau. Tuy nhiên, các bệnh dị  ứng phổ biến thường gặp và trị liệu  miễn dịch nhắm vào là loại 1 (phản  ứng quá mẫn tức thì) và loại 4 (phản  ứng quá mẫn muộn). Cơ chế miễn  dịch của dị ứng về cơ bản được chia  thành 2 giai đoạn:  1- Mẫn cảm; 2-  Phản ứng dị  ứng.  Khi chúng ta tiếp  xúc lần thứ 2 với dị nguyên sẽ gây  ra phản ứng cấp tính dẫn đến các  triệu chứng dị ứng như giãn mạch,  co thắt phế quản, tiêu chảy, buồn  nôn. Phản ứng dị ứng muộn thường  xảy ra trong 4-6 tiếng sau khi tiếp  xúc dị nguyên và thường gây ra các  triệu chứng như khó thở, ho, đờm,  phù nề. Nếu bệnh nhân tiếp xúc với  các dị nguyên trong thời gian dài có  thể gây ra phản ứng mạn tính với  các triệu chứng như: xơ hóa đường  hô hấp, tăng sản tế bào đờm. Trên  thực tế, bệnh nhân có thể biểu hiện  các bệnh cảnh khác nhau khi tiếp  xúc với dị nguyên, như: mắt (viêm  kết mạc dị ứng), đường hô hấp trên  (viêm  mũi  dị  ứng),  đường  hô  hấp  dưới  (hen  suyễn),  da  (viêm  da  cơ  địa)... Đối với mỗi bệnh cảnh dị ứng,  bệnh  nhân  có  thể  được  chỉ  định  dùng  thuốc  kháng  histamine  hoặc  corticosteroids dạng hít hoặc dạng  bôi.   (4) Trong phần lớn các trường hợp,  triệu  chứng  dị  ứng  sẽ  được  kiểm  soát, tuy nhiên, có một nhóm bệnh  nhân  vẫn  sẽ  tiềm  ẩn  nguy  cơ  tái  phát khi tiếp xúc lại với dị nguyên,  do vẫn tồn tại những tế bào T ghi  nhớ trong cơ thể. AIT có thể được  áp dụng để thay đổi cách hệ miễn  dịch đáp ứng với dị nguyên.   (5) Các  nhà  khoa  học  cũng  phát  hiện ra rằng, hệ miễn dịch của con  người  có  thể  được  huấn  luyện  để  nhận biết các dị nguyên có hại và  vô hại, từ đó ghi nhớ và những lần  tiếp xúc sau không gây ra phản ứng  miễn dịch. Đó cũng chính là cơ chế  cơ bản của trị liệu miễn dịch và dẫn  tới áp dụng phương pháp AIT. (6) Gần đây, AIT  đã  được  nghiên  cứu và ứng dụng rộng rãi trên toàn  thế giới với những kết quả đáng ghi  nhận.  Nguyên  tắc  của  AIT  là  đưa  vào cơ thể người bệnh một lượng dị  nguyên với liều lượng tăng dần từ  thấp đến cao, đến khi đạt một nồng  độ nhất định hiệu quả trong việc tạo  ra hiện tượng dung nạp miễn dịch  của  cơ  thể  đối  với  loại  dị  nguyên  đó. Nhờ vào đặc tính huấn luyện hệ  miễn dịch của cơ thể quen dần với  sự tồn tại của dị nguyên, AIT vừa  giúp làm giảm triệu chứng, vừa giúp  ngăn  ngừa  tái  phát  về  sau,  kể  cả  khi tiếp xúc với dị nguyên. Cơ chế  tạo  ra  tình  trạng  dung  nạp  miễn  dịch của AIT khá phức tạp và vẫn  còn đang được nghiên cứu. Các  nghiên cứu cho thấy, ở những bệnh  nhân đạt được dung nạp miễn dịch,  hệ miễn dịch có xu hướng chuyển  đổi từ đáp ứng tế bào T hỗ trợ loại  2 (Th2 - T helper cell type-2) sang  đáp ứng miễn dịch tế bào T hỗ trợ  loại  1  (Th1).  Đáp  ứng  miễn  dịch  theo hướng Th2 sẽ gây ra tình trạng  dị  ứng,  do  đó,  giảm  đáp  ứng  Th2  sẽ giúp triệu chứng được cải thiện.  Bên  cạnh  đó,  tế  bào  T  điều  hòa  được sinh ra và sản xuất các hóa  chất trung gian kháng viêm, ví dụ  interleukin-10  (IL-10),  yếu  tố  tăng  trưởng  chuyển  đổi  b  (transforming  growth factor-b). IL-10 có tác dụng  làm giảm kháng thể IgE (tăng dị ứng)  và  tăng  kháng  thể  IgG4  (giảm  dị  ứng), nhờ đó làm giảm sản xuất các  hóa chất trung gian từ dưỡng bào,  bạch cầu ái toan và tế bào T. Cùng  với đó, AIT còn giúp hạn chế kết tập  tế bào bạch cầu ái toan, dưỡng bào,  bạch cầu ái kiềm ra ngoài da hoặc  niêm mạc và làm giảm tiết hóa chất  trung gian gây viêm từ các tế bào  này.      (7) Hiện  nay,  AIT  được  dùng  bằng  đường  tiêm,  viên  ngậm  dưới  lưỡi,  tiêm  hạch  bạch  huyết,  miếng  dán  ngoài  da.  Điều  trị  miễn  dịch  dưới  da  (subcutaneous  immunotherapy  treatment  -  SCIT)  và  điều  trị  miễn  dịch  dưới  lưỡi  (sublingual  immunotherapy  treatment  -  SLIT)  là hai phương pháp phổ biến nhất  thường được sử dụng. Khi được chỉ  định áp dụng SCIT, bệnh nhân sau  khi được tiêm dị nguyên cần được  theo dõi tại cơ sở y tế có khả năng  xử lý khi có sốc phản vệ. (8) Có  thể  nói,  áp  dụng  AIT  trong  điều trị hen suyễn và viêm mũi dị  ứng/viêm kết mạc dị ứng đã được  các nhà khoa học ở nhiều quốc gia  nghiên cứu. Trong mọi trường hợp,  chỉ định của AIT đều phải cân nhắc  dựa  trên  triệu  chứng  dị  ứng,  kèm  theo kết quả cận lâm sàng chứng  minh có sự tồn tại của các IgE đặc  hiệu (specific IgE - sIgE) đối với loại  dị  nguyên  tương  ứng  gây  ra  bệnh  cảnh lâm sàng cho bệnh nhân. AIT  được chỉ định dùng cho bệnh nhân  hen  suyễn,  viêm  mũi  dị  ứng/viêm  kết mạc dị ứng có kèm hoặc không  kèm  hen  suyễn,  trong  các  trường  hợp như: bệnh nhân có triệu chứng  không được kiểm soát tốt bằng các  phương pháp thông thường (thuốc,  hạn chế tiếp xúc dị nguyên); bệnh  nhân cần duy trì liều thuốc cao và/ hoặc phải kết hợp nhiều loại thuốc  khác nhau để duy trì tình trạng ổn  định; đa mẫn cảm với nhiều loại dị  nguyên; viêm da cơ địa kèm dị ứng  với dị nguyên không khí, bệnh nhân  có phản ứng toàn thân với vết cắn  của côn trùng kèm sIgE kháng lại  dị nguyên của côn trùng, ví dụ với  các loại ong... Còn các trường hợp  chống chỉ định như: bệnh nhân có  hen suyễn nặng hoặc không kiểm  soát;  bệnh  nhân  có  bệnh  lý  tim  mạch nặng kèm theo (bệnh mạch  vành không kiểm soát, nhồi máu cơ  tim  mới,  loạn  nhịp,  tăng  huyết  áp  không  kiểm  soát...);  bệnh  nhân  sử  dụng  thuốc  b-blockers  (chống  chỉ  định tuyệt đối khi thực hiện AIT cho  dị ứng với dị nguyên không khí và  chống chỉ định tương đối với dị ứng  côn trùng) do nguy cơ làm tăng sốc  phản vệ kháng trị. Ngoài ra, thuốc  ức chế men chuyển đổi angiotensin  cũng  cần  được  cân  nhắc  để  tạm  ngưng đối với các bệnh nhân thực  hiện AIT cho dị ứng côn trùng, hoặc  dị ứng với đa dị nguyên. Trong một  số  trường  hợp  đặc  biệt,  AIT  cần  được cân nhắc cẩn trọng đối với trẻ  nhỏ dưới 6 tuổi; người lớn tuổi, phụ  nữ có thai, và bệnh nhân có bệnh  ác tính, suy giảm miễn dịch hoặc tự  miễn.    (9) Những dữ liệu từ các thử nghiệm  lâm  sàng  cho  thấy  hiệu  quả  của  AIT trong việc cải thiện chất lượng  sống,  chức  năng  phổi,  giảm  liều  dùng  corticosteroid,  tần  suất  cơn  kịch  phát,  số  lần  đo  chức  năng  phổi. Tuy nhiên, hiệu quả cải thiện triệu chứng lâu dài (sau khi kết thúc  phác đồ điều trị một năm) chỉ được  chứng minh trong một số ít nghiên  cứu như đã đề cập. Mặc dù tương  đối  an  toàn,  AIT  vẫn  có  nguy  cơ  gây  phản  ứng  phản  vệ  cho  bệnh  nhân, do đó nên cân nhắc đối với  từng bệnh nhân, tùy theo độ nặng  của triệu chứng, liều đang sử dụng  để kiểm soát triệu chứng, tác dụng  phụ do thuốc và theo mong muốn  của bệnh nhân. AIT nên được thực  hiện bởi các chuyên gia y tế (bác sĩ,  điều dưỡng) đã được huấn luyện về  dị ứng, tại các cơ sở y tế có trang  thiết  bị  đầy  đủ  (đối  với  SCIT)  và  bệnh nhân đã được cung cấp đầy  đủ  thông  tin  về  các  tác  dụng  phụ  (đối với SLIT).   (10) Hiện nay, với tỷ lệ tăng dần của  các bệnh lý hen suyễn, dị ứng tại  Việt  Nam,  AIT  sẽ  là  một  phương  pháp điều trị cần thiết và khả thi đối  với  bệnh  nhân,  nhằm  duy  trì  chất  lượng  cuộc  sống khỏe mạnh.  Bên  cạnh  đó,  chúng  ta  cần  thực  hiện  khảo sát về tần suất dị nguyên, các  nghiên  cứu  thử  nghiệm  lâm  sàng  đánh  giá  hiệu  quả,  tác  dụng  phụ  của AIT trên bệnh nhân ở Việt Nam.  Bên cạnh đó, vì mỗi nước hay mỗi  vùng  có  thời  tiết,  hệ  sinh  thái  và  thảm thực vật khác nhau nên nhiều  dị nguyên và kháng nguyên mang  tính chất vùng, miền khác nhau. Do  đó, nên theo hướng nghiên cứu và  xác  định  đặc  điểm  tính  chất,  đặc  thù các kháng nguyên thường gây  dị  ứng,  từ  đó  có  các  nghiên  cứu  sâu để sản xuất các kháng nguyên  tinh sạch đủ chất lượng để sử dụng  trong xét nghiệm cũng như trong trị  liệu miễn dịch cho các bệnh nhân  dị ứng.     (Nguồn: “Trị liệu miễn dịch trong điều trị dị ứng”, Trịnh Hoàng Kim Tú, TS Lê Đức Dũng, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018) Văn bản đề cập đến phương thức trị liệu trong bệnh gì? A. Ung thư B. Viêm phổi C. Dị ứng D. Viêm da cơ địa

Câu hỏi

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi: Trị liệu miễn dịch trong điều trị dị ứng (1) Các bệnh dị ứng rất phổ biến  ở  các  nước  phát  triển và đang có xu thế  tăng  lên  hàng  năm.  Ở các nền kinh tế đang phát triển,  mặc dù tỷ lệ người mắc bệnh dị ứng  thấp hơn nhưng cũng có xu hướng  gia tăng. Ở Việt Nam, tuy chưa có  thống kê cụ thể nhưng số người mắc  bệnh này được phát hiện ngày càng  nhiều. Lâu nay, hầu hết các thuốc  chữa trị các bệnh dị ứng mới chỉ tập  trung vào điều trị triệu chứng, chỉ có  tác dụng chữa trị trong một thời gian  nhất định. Các biện pháp chữa trị  can thiệp dựa vào cơ chế hình thành  và  phát  triển  của  bệnh  hiện  đang  được tập trung nghiên cứu và ứng  dụng.  Trong  đó,  trị  liệu  miễn  dịch  là  một  phương  pháp  được  nghiên  cứu sâu rộng và hứa hẹn nhiều tiềm  năng trong tương lai gần.  Phản ứng quá mức  của  cơ  thể  chúng  ta  trước  những  dị  nguyên  vô  hại  như:  phấn  hoa,  lông  chó  mèo,  mạt  bụi  nhà...  Các  loại bệnh dị ứng thường gặp là hen  suyễn,  viêm  mũi,  viêm  da,  dị  ứng  thực  phẩm,  sốc  phản  vệ... (3) Theo cơ chế phản ứng miễn dịch  và sự tham gia khác nhau giữa các  thành phần của hệ miễn dịch, người  ta phân ra 4 loại phản ứng dị ứng  khác nhau. Tuy nhiên, các bệnh dị  ứng phổ biến thường gặp và trị liệu  miễn dịch nhắm vào là loại 1 (phản  ứng quá mẫn tức thì) và loại 4 (phản  ứng quá mẫn muộn). Cơ chế miễn  dịch của dị ứng về cơ bản được chia  thành 2 giai đoạn:  1- Mẫn cảm; 2-  Phản ứng dị  ứng.  Khi chúng ta tiếp  xúc lần thứ 2 với dị nguyên sẽ gây  ra phản ứng cấp tính dẫn đến các  triệu chứng dị ứng như giãn mạch,  co thắt phế quản, tiêu chảy, buồn  nôn. Phản ứng dị ứng muộn thường  xảy ra trong 4-6 tiếng sau khi tiếp  xúc dị nguyên và thường gây ra các  triệu chứng như khó thở, ho, đờm,  phù nề. Nếu bệnh nhân tiếp xúc với  các dị nguyên trong thời gian dài có  thể gây ra phản ứng mạn tính với  các triệu chứng như: xơ hóa đường  hô hấp, tăng sản tế bào đờm. Trên  thực tế, bệnh nhân có thể biểu hiện  các bệnh cảnh khác nhau khi tiếp  xúc với dị nguyên, như: mắt (viêm  kết mạc dị ứng), đường hô hấp trên  (viêm  mũi  dị  ứng),  đường  hô  hấp  dưới  (hen  suyễn),  da  (viêm  da  cơ  địa)... Đối với mỗi bệnh cảnh dị ứng,  bệnh  nhân  có  thể  được  chỉ  định  dùng  thuốc  kháng  histamine  hoặc  corticosteroids dạng hít hoặc dạng  bôi.   (4) Trong phần lớn các trường hợp,  triệu  chứng  dị  ứng  sẽ  được  kiểm  soát, tuy nhiên, có một nhóm bệnh  nhân  vẫn  sẽ  tiềm  ẩn  nguy  cơ  tái  phát khi tiếp xúc lại với dị nguyên,  do vẫn tồn tại những tế bào T ghi  nhớ trong cơ thể. AIT có thể được  áp dụng để thay đổi cách hệ miễn  dịch đáp ứng với dị nguyên.   (5) Các  nhà  khoa  học  cũng  phát  hiện ra rằng, hệ miễn dịch của con  người  có  thể  được  huấn  luyện  để  nhận biết các dị nguyên có hại và  vô hại, từ đó ghi nhớ và những lần  tiếp xúc sau không gây ra phản ứng  miễn dịch. Đó cũng chính là cơ chế  cơ bản của trị liệu miễn dịch và dẫn  tới áp dụng phương pháp AIT. (6) Gần đây, AIT  đã  được  nghiên  cứu và ứng dụng rộng rãi trên toàn  thế giới với những kết quả đáng ghi  nhận.  Nguyên  tắc  của  AIT  là  đưa  vào cơ thể người bệnh một lượng dị  nguyên với liều lượng tăng dần từ  thấp đến cao, đến khi đạt một nồng  độ nhất định hiệu quả trong việc tạo  ra hiện tượng dung nạp miễn dịch  của  cơ  thể  đối  với  loại  dị  nguyên  đó. Nhờ vào đặc tính huấn luyện hệ  miễn dịch của cơ thể quen dần với  sự tồn tại của dị nguyên, AIT vừa  giúp làm giảm triệu chứng, vừa giúp  ngăn  ngừa  tái  phát  về  sau,  kể  cả  khi tiếp xúc với dị nguyên. Cơ chế  tạo  ra  tình  trạng  dung  nạp  miễn  dịch của AIT khá phức tạp và vẫn  còn đang được nghiên cứu. Các  nghiên cứu cho thấy, ở những bệnh  nhân đạt được dung nạp miễn dịch,  hệ miễn dịch có xu hướng chuyển  đổi từ đáp ứng tế bào T hỗ trợ loại  2 (Th2 - T helper cell type-2) sang  đáp ứng miễn dịch tế bào T hỗ trợ  loại  1  (Th1).  Đáp  ứng  miễn  dịch  theo hướng Th2 sẽ gây ra tình trạng  dị  ứng,  do  đó,  giảm  đáp  ứng  Th2  sẽ giúp triệu chứng được cải thiện.  Bên  cạnh  đó,  tế  bào  T  điều  hòa  được sinh ra và sản xuất các hóa  chất trung gian kháng viêm, ví dụ  interleukin-10  (IL-10),  yếu  tố  tăng  trưởng  chuyển  đổi  b  (transforming  growth factor-b). IL-10 có tác dụng  làm giảm kháng thể IgE (tăng dị ứng)  và  tăng  kháng  thể  IgG4  (giảm  dị  ứng), nhờ đó làm giảm sản xuất các  hóa chất trung gian từ dưỡng bào,  bạch cầu ái toan và tế bào T. Cùng  với đó, AIT còn giúp hạn chế kết tập  tế bào bạch cầu ái toan, dưỡng bào,  bạch cầu ái kiềm ra ngoài da hoặc  niêm mạc và làm giảm tiết hóa chất  trung gian gây viêm từ các tế bào  này.      (7) Hiện  nay,  AIT  được  dùng  bằng  đường  tiêm,  viên  ngậm  dưới  lưỡi,  tiêm  hạch  bạch  huyết,  miếng  dán  ngoài  da.  Điều  trị  miễn  dịch  dưới  da  (subcutaneous  immunotherapy  treatment  -  SCIT)  và  điều  trị  miễn  dịch  dưới  lưỡi  (sublingual  immunotherapy  treatment  -  SLIT)  là hai phương pháp phổ biến nhất  thường được sử dụng. Khi được chỉ  định áp dụng SCIT, bệnh nhân sau  khi được tiêm dị nguyên cần được  theo dõi tại cơ sở y tế có khả năng  xử lý khi có sốc phản vệ. (8) Có  thể  nói,  áp  dụng  AIT  trong  điều trị hen suyễn và viêm mũi dị  ứng/viêm kết mạc dị ứng đã được  các nhà khoa học ở nhiều quốc gia  nghiên cứu. Trong mọi trường hợp,  chỉ định của AIT đều phải cân nhắc  dựa  trên  triệu  chứng  dị  ứng,  kèm  theo kết quả cận lâm sàng chứng  minh có sự tồn tại của các IgE đặc  hiệu (specific IgE - sIgE) đối với loại  dị  nguyên  tương  ứng  gây  ra  bệnh  cảnh lâm sàng cho bệnh nhân. AIT  được chỉ định dùng cho bệnh nhân  hen  suyễn,  viêm  mũi  dị  ứng/viêm  kết mạc dị ứng có kèm hoặc không  kèm  hen  suyễn,  trong  các  trường  hợp như: bệnh nhân có triệu chứng  không được kiểm soát tốt bằng các  phương pháp thông thường (thuốc,  hạn chế tiếp xúc dị nguyên); bệnh  nhân cần duy trì liều thuốc cao và/ hoặc phải kết hợp nhiều loại thuốc  khác nhau để duy trì tình trạng ổn  định; đa mẫn cảm với nhiều loại dị  nguyên; viêm da cơ địa kèm dị ứng  với dị nguyên không khí, bệnh nhân  có phản ứng toàn thân với vết cắn  của côn trùng kèm sIgE kháng lại  dị nguyên của côn trùng, ví dụ với  các loại ong... Còn các trường hợp  chống chỉ định như: bệnh nhân có  hen suyễn nặng hoặc không kiểm  soát;  bệnh  nhân  có  bệnh  lý  tim  mạch nặng kèm theo (bệnh mạch  vành không kiểm soát, nhồi máu cơ  tim  mới,  loạn  nhịp,  tăng  huyết  áp  không  kiểm  soát...);  bệnh  nhân  sử  dụng  thuốc  b-blockers  (chống  chỉ  định tuyệt đối khi thực hiện AIT cho  dị ứng với dị nguyên không khí và  chống chỉ định tương đối với dị ứng  côn trùng) do nguy cơ làm tăng sốc  phản vệ kháng trị. Ngoài ra, thuốc  ức chế men chuyển đổi angiotensin  cũng  cần  được  cân  nhắc  để  tạm  ngưng đối với các bệnh nhân thực  hiện AIT cho dị ứng côn trùng, hoặc  dị ứng với đa dị nguyên. Trong một  số  trường  hợp  đặc  biệt,  AIT  cần  được cân nhắc cẩn trọng đối với trẻ  nhỏ dưới 6 tuổi; người lớn tuổi, phụ  nữ có thai, và bệnh nhân có bệnh  ác tính, suy giảm miễn dịch hoặc tự  miễn.    (9) Những dữ liệu từ các thử nghiệm  lâm  sàng  cho  thấy  hiệu  quả  của  AIT trong việc cải thiện chất lượng  sống,  chức  năng  phổi,  giảm  liều  dùng  corticosteroid,  tần  suất  cơn  kịch  phát,  số  lần  đo  chức  năng  phổi. Tuy nhiên, hiệu quả cải thiện triệu chứng lâu dài (sau khi kết thúc  phác đồ điều trị một năm) chỉ được  chứng minh trong một số ít nghiên  cứu như đã đề cập. Mặc dù tương  đối  an  toàn,  AIT  vẫn  có  nguy  cơ  gây  phản  ứng  phản  vệ  cho  bệnh  nhân, do đó nên cân nhắc đối với  từng bệnh nhân, tùy theo độ nặng  của triệu chứng, liều đang sử dụng  để kiểm soát triệu chứng, tác dụng  phụ do thuốc và theo mong muốn  của bệnh nhân. AIT nên được thực  hiện bởi các chuyên gia y tế (bác sĩ,  điều dưỡng) đã được huấn luyện về  dị ứng, tại các cơ sở y tế có trang  thiết  bị  đầy  đủ  (đối  với  SCIT)  và  bệnh nhân đã được cung cấp đầy  đủ  thông  tin  về  các  tác  dụng  phụ  (đối với SLIT).   (10) Hiện nay, với tỷ lệ tăng dần của  các bệnh lý hen suyễn, dị ứng tại  Việt  Nam,  AIT  sẽ  là  một  phương  pháp điều trị cần thiết và khả thi đối  với  bệnh  nhân,  nhằm  duy  trì  chất  lượng  cuộc  sống khỏe mạnh.  Bên  cạnh  đó,  chúng  ta  cần  thực  hiện  khảo sát về tần suất dị nguyên, các  nghiên  cứu  thử  nghiệm  lâm  sàng  đánh  giá  hiệu  quả,  tác  dụng  phụ  của AIT trên bệnh nhân ở Việt Nam.  Bên cạnh đó, vì mỗi nước hay mỗi  vùng  có  thời  tiết,  hệ  sinh  thái  và  thảm thực vật khác nhau nên nhiều  dị nguyên và kháng nguyên mang  tính chất vùng, miền khác nhau. Do  đó, nên theo hướng nghiên cứu và  xác  định  đặc  điểm  tính  chất,  đặc  thù các kháng nguyên thường gây  dị  ứng,  từ  đó  có  các  nghiên  cứu  sâu để sản xuất các kháng nguyên  tinh sạch đủ chất lượng để sử dụng  trong xét nghiệm cũng như trong trị  liệu miễn dịch cho các bệnh nhân  dị ứng.     (Nguồn: “Trị liệu miễn dịch trong điều trị dị ứng”, Trịnh Hoàng Kim Tú, TS Lê Đức Dũng, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018) Văn bản đề cập đến phương thức trị liệu trong bệnh gì? A. Ung thư B. Viêm phổi C. Dị ứng D. Viêm da cơ địa

expert verifiedXác minh chuyên gia

Giải pháp

3.9(264 phiếu bầu)
avatar
Hoàng Anh Tùngngười xuất sắc · Hướng dẫn 8 năm

Trả lời

<div class="question"><br /><div class="result"><br /><p style="color: #44a500;font-weight: 700; font-size: 22px; padding-bottom: 5px">Văn bản đề cập đến phương thức trị liệu trong bệnh dị ứng.</p><p style="color: #e29000; font-weight: 700; font-size: 22px; ">Giải thích:</p><p>Đáp án cần chọn là: C</p><br /></div><br /></div>