Quyền sở hữu tài sản của công dân theo Hiến pháp năm 1992

essays-star4(192 phiếu bầu)

Trong Hiến pháp năm 1992, quyền sở hữu tài sản của công dân đã được mở rộng phạm vi nội dung. Điều 23 của Hiến pháp quy định rằng tài sản hợp pháp của cá nhân và tổ chức không bị quốc hữu hóa. Tuy nhiên, Nhà nước có quyền trưng mua hoặc trung dụng tài sản của cá nhân hoặc tổ chức trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia. Thể thức trưng mua, trung dụng được quy định bởi luật pháp. So với Hiến pháp năm 1980, quyền sở hữu của công dân theo Hiến pháp năm 1992 đã được mở rộng phạm vi nội dung. Các loại tài sản thuộc sở hữu của công dân không còn bị giới hạn như trước mà được mở rộng hơn để phục vụ cho việc phát triển nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần tham gia (Điều 58). Tuy nhiên, sự giới hạn quyền sở hữu tài sản của công dân được hiến định bằng việc Nhà nước có thể trung mua, trung dụng vì lý do chính đáng là quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia. Điểm tương đồng với tinh thần trong các Hiến pháp trước đó là việc trưng mua, trung dụng phải có sự bồi thường, nhưng bồi thường phải theo giá thị trường. Mặt khác, trong các bản Hiến pháp trước đó có 3 hình thức trưng mua, trưng dụng và trung thu, nhưng Hiến pháp năm 1992 chỉ còn 2 hình thức là trung mua và trung dụng. Hiến pháp năm 1992 cũng khẳng định rõ thể thức trung mua, trung dụng tài sản do luật quy định, không phải do pháp luật quy định như trong Hiến pháp năm 1980. Như vậy, đối với quyền sở hữu tài sản của công dân, Hiến pháp năm 1992 đã thiết lập nguyên tắc giới hạn quyền một cách chặt chẽ hơn nhằm tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền sở hữu cá nhân của công dân phù hợp với những đổi mới của sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường.