Sự hy sinh và tình cảm đáng kinh ngạc giữa người quản tượng và con voi
Trong câu chuyện về người quản tượng và con voi, chúng ta được chứng kiến một tình cảm đáng kinh ngạc giữa hai sinh vật khác nhau. Con voi, từ khi rời căn cứ, trở nên ủ rũ và buồn bã. Nó nhớ ông đề đốc, nhớ đời chiến trận và nhớ cuộc sống khó khăn dưới làng. Mặc dù nó vẫn giúp người quản tượng phá rẫy và kéo gỗ, nhưng nó luôn mang trong mình một cảm giác buồn thiu. Nó không còn thèm ăn cỏ và không đụng vòi đến một ngọn mía hay một sợi cỏ nào. Người quản tượng hiểu lòng con voi. Nó là nguồn an ủi của ông trong những lúc khó khăn. Ông chưa từng sống lâu với ai như sống với con voi. Ông quen nó quá, khó lòng xa rời nó được. Tuy nhiên, ông quyết định thả nó về rừng, nơi nó ra đời. Ông cho con voi ăn suốt mùa hè, vỗ cho nó ăn thêm hai vác mía to và hai thùng cháo. Ông coi con voi như con em trong nhà và khuyến khích nó ăn cho khỏe, lấy sức mà về. Ông tin rằng khi Đề đốc Lê Trực dấy quân, ông sẽ đón con voi trở lại. Tuy nhiên, khi sang đến mùa thu, con voi không chịu ăn nữa. Trời thu yên tĩnh, gió rì rào đưa về hương vị của rừng xa. Con vật cứ vươn vòi đón gió và rống gọi buồn bã. Nó héo hon đi như chiếc lá già. Người quản tượng biết rằng gió thu làm con voi nhớ về rừng. Ông quyết định thả con voi ngay lập tức. Mỗi khi sang thu, con voi lại xuống làng. Tiếng rống của nó vang lên từ xa, trước khi lội qua bến sông. Người làng nhận ra tiếng rống và bảo nhau rằng Ông Một đã trở về. Họ nô nức ra đón con voi cùng người quản tượng. Con voi theo người quản tượng về mái nhà cũ và quỳ ở giữa sân. Sự trở về của con vật khiến người quản tượng trẻ lại. Ông dẫn nó đi tắm và đưa nó lên nương, nơi ông đã trồng sẵn một nương mía. Ông thết đãi con voi những bữa no nê. Những ngày ấy, nhà ông tràn đầy người và sự vui vẻ. Lũ trẻ kéo đến dưới chân voi, còn các bộ lão đem đến quà cho nó. Con voi thường lưu lại ở nhà người quản tượng và giúp ông đủ việc. Được mười năm như thế, người quản tượng qua đời. Ông mất giữa lúc đất nước còn tối tăm, thời vận dây quân chưa