Biểu tượng mặt trăng trong tình yêu và văn học Việt Nam
Từ thuở hồng hoang khai thiên lập địa, con người đã hướng lên bầu trời đêm với muôn vàn vì tinh tú lấp lánh, trong đó, mặt trăng hiện lên như một biểu tượng vĩnh hằng, khơi gợi biết bao thi hứng và cảm xúc. Trong văn hóa Việt Nam, đặc biệt là trong tình yêu và văn học, biểu tượng mặt trăng mang một ý nghĩa vô cùng sâu sắc, len lỏi trong tâm hồn người nghệ sĩ và in đậm dấu ấn trong kho tàng văn chương dân tộc.
<h2 style="font-weight: bold; margin: 12px 0;">Ánh trăng - Chứng nhân cho tình yêu đôi lứa</h2>
Trong tâm thức người Việt, mặt trăng thường được gắn liền với tình yêu đôi lứa, là biểu tượng cho sự thủy chung, son sắt và niềm khát khao sum vầy. Hình ảnh ánh trăng vằng vặc soi tỏ đêm rằm như minh chứng cho tình yêu trong sáng, viên mãn. Ngược lại, trăng khuyết, trăng tàn lại gợi lên nỗi nhớ nhung da diết, sự chia ly cách trở, khi đôi lứa phải sống trong cảnh xa mặt cách lòng.
Ca dao, tục ngữ Việt Nam có vô số câu nói về hình ảnh mặt trăng trong tình yêu. “Thương em như trăng sáng vườn chè, Ước gì sông hẹp đường về sum nhau” - câu ca dao như lời bày tỏ tình cảm chân thành của chàng trai dành cho người con gái mình yêu, nguyện ước sông ngắn lại, đường gần hơn để được sớm ngày gặp gỡ. Hay như câu hát “Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng, Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?” - ánh trăng như một người bạn tâm tình, chứng kiến lời tỏ tình e ấp, ngại ngùng của đôi trẻ.
<h2 style="font-weight: bold; margin: 12px 0;">Biểu tượng mặt trăng trong thi ca Việt Nam</h2>
Không chỉ xuất hiện trong ca dao, tục ngữ, hình ảnh mặt trăng còn là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ, nhà văn Việt Nam. Từ thời trung đại đến hiện đại, biết bao vần thơ, trang văn đã ra đời, mang trong mình vẻ đẹp lung linh, huyền ảo của ánh trăng, đồng thời gửi gắm tâm tư, tình cảm của tác giả.
Trong thơ ca trung đại, Nguyễn Du là một trong những nhà thơ sử dụng hình ảnh mặt trăng thành công nhất. Đọc “Truyện Kiều”, ta bắt gặp hình ảnh mặt trăng với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Đó là ánh trăng vằng vặc, thơ mộng trong đêm Kim Kiều gặp gỡ: “Vầng trăng vằng vặc giữa trời, Đinh ninh hai mặt một lời song song”. Đó còn là ánh trăng lẻ loi, hiu quạnh khi Thúy Kiều sống trong cảnh lưu lạc: “Trăng bao nhiêu tuổi trăng già, Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non?”.
Sang đến thơ ca hiện đại, hình ảnh mặt trăng tiếp tục được các nhà thơ khai thác và phát triển theo nhiều chiều hướng mới mẻ. Nếu như Hàn Mặc Tử lãng mạn hóa ánh trăng, biến nó thành người bạn tri kỷ, cùng chia sẻ nỗi niềm tâm sự: “Hôm nay trăng mới về nhà, Tình xưa anh nhớ, - xin ra một bài” thì với Nguyễn Duy, trăng lại gắn liền với hình ảnh quê hương, đất nước: “Hồi chiến tranh ở rừng, Vầng trăng thành tri kỷ”.
<h2 style="font-weight: bold; margin: 12px 0;">Mặt trăng - Gợi lên những suy tư về thân phận con người</h2>
Bên cạnh ý nghĩa về tình yêu, mặt trăng trong văn học Việt Nam còn là biểu tượng cho thân phận con người, gợi lên những suy tư về cuộc đời, số phận. Hình ảnh trăng tròn, trăng khuyết, trăng ẩn, trăng hiện như chu kỳ tuần hoàn của tạo hóa, cũng giống như cuộc đời con người khi thịnh lúc suy, lúc vui lúc buồn, khi hợp khi tan.
Trong thơ ca, hình ảnh “ánh trăng” hay “vầng trăng” thường được sử dụng để nói về quá khứ, về những gì đã qua, đã xa. Ánh trăng như một chứng nhân lịch sử, lặng lẽ dõi theo dòng chảy thời gian, chứng kiến bao đổi thay của cuộc đời.
Có thể nói, biểu tượng mặt trăng đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt, trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc. Từ những câu ca dao, tục ngữ đến những áng văn chương bất hủ, mặt trăng hiện lên với vẻ đẹp lung linh, huyền ảo, khơi gợi biết bao cảm xúc và suy tư.