Câu hỏi
(3.0 điểm) Đọc bài thơ sau và trả lời những câu hỏi từ 1 đến 4: Rễ sâu ai biết là hoa Xoắn đau núm ruột làm ra nụ cười. Im trong lòng đất rối bời Chắt chiu từng giọt, từng lời lặng im. Uống từng giọt nước đời quên Ăn từng thớ đá dựng nên sắc hồng Nở rồi, trông dễ như không Một vùng sáng đọng, một vùng hương bay. Tụ, tan màu sắc một ngày Mặt trời hôm, mặt trời mai ngoảnh cười Bắt đầu từ rễ em ơi! (Chế Lan Viên , Rễ … hoa) Câu 1 . Bài thơ trên được viết theo thể thơ nào? (0.25 điểm). Câu 2 . Để tạo nên hoa, hình tượng rễ trong bài thơ đã phải trải qua những gì? (0.5 điểm). Câu 3 . Qua sự nhọc nhằn của rễ, bài thơ gợi nhớ tình cảm đạo lí gì? (0.25 điểm) Câu 4 . Anh/chị hiểu như thế nào về lời khuyên nhủ “ Bắt đầu từ rễ em ơi! ”? (Trả lời bằng một đoạn văn từ 5 – 10 câu) (0.5 điểm). Đọc đoạn trích sau và trả lời những câu hỏi từ 5 đến 8 : Trong xã hội ta, từ ngàn năm nay, tồn tại một tình trạng nước đôi dang dở. Chữ Hán vẫn là công cụ giao tiếp giữa nhà nước và người dân (. .. ) Còn chữ Nôm chỉ để ghi cái đời sống tình cảm hàng ngày, hoặc kêu than, hoặc đùa bỡn…Nó khó học do đó không phổ biến. Tình trạng chữ viết Việt Nam như trên níu kéo văn hóa đọc với hai nghĩa: Thứ nhất, ở dạng trực tiếp, nó làm cho sách khó viết, viết xong khó xuất bản, xuất bản xong khó đến với người đọc; Thứ hai, ở dạng gián tiếp, nó ảnh hưởng tới tư duy con người. Với một thứ chữ thuận tiện, người ta có thể ghi chép, hoàn thiện dần những suy nghĩ của mình và giao lưu với nhau làm cho tri thức ngày càng phong phú. Ngược lại, như ở ta, do thiếu phương tiện (chữ và sách) hợp lý để ghi lại những vận động trong đầu óc, sự suy nghĩ của người ta dễ dừng lại ở tình trạng manh mún rời rạc. Gần đây nhiều người đã công nhận là dân ta làm việc gì thường theo lối chụp giật, mà thiếu thói quen nghiên cứu sự vật; sự nghĩ ngợi hay chắp vá nửa vời, đầu óc người ta không chăm chú theo đuổi cái gì tới cùng (…) Tất cả những bệnh trạng đó trong tư duy bắt nguồn một phần từ một văn hóa đọc lom đom, một đời sống tinh thần thiếu sách. Đến lượt mình, kiểu tư duy này lại quay trở lại, cản trở người Việt đọc sách. Ca dao tục ngữ truyện cười ở ta thường có thái độ chế giễu với người đọc sách. Dưới những con mắt thế tục, việc đọc sách có vẻ như là một cái gì vô bổ của loại người “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm” (…). Cố nhiên trong thực tế, lại có một tình trạng tế nhị khác, là các làng xã thường đánh giá nhau bằng số lượng kẻ cắm đầu vào sách. Có gì mâu thuẫn ở đây chăng? Không. Học trò xưa ham học để có ngày lều chõng đi thi và trở thành quan chức (từ đây khái quát lên, người ta vẫn tự hào người Việt ham học). Nhưng không thể bảo họ, - đám người “nghiền” sách cốt đi thi kia - là những người đọc sách với đúng nghĩa của nó. Người học để đi thi tự giới hạn trong kiến thức của người chấm cho họ đỗ. Ngược lại đặc trưng chủ yếu của người đọc sách là một tư duy độc lập và một khao khát bất tận với sự hiểu biết. Loại sau ở xã hội ta quá hiếm, lại còm cõi ít ỏi và chưa thành một lớp người ổn định. Giải thích sao về hiện tượng này? Suy cho cùng ở xã hội nghèo, mọi việc vẫn do miếng cơm manh áo quyết định. Khi có thể dùng sách để lập thân thì người ta đọc sách. Khi có nhiều con đường khác lập thân mà ít tốn sức lực hơn – kể cả lối giả vờ đọc sách, gian lận thi cử - thì người ta bỏ sách khá dễ dàng. Và đó chính là tình trạng của xã hội hôm nay. (Vương Trí Nhàn, Vì sao người Việt không mê đọc sách? , chungta.com) Câu 5 . Đoạn trích trên bàn về vấn đề gì? (0.25 điểm). Câu 6 . Tình trạng “nước đôi” của chữ viết nước ta thời trung đại dẫn đến những hệ quả nào? (0.5 điểm). Câu 7 . Theo tác giả, đặc trưng chủ yếu của người đọc sách là gì? Thực trạng của lớp người này trong xã hội ta ra sao? (0.5 điểm). Câu 8 . Theo anh/chị, làm thế nào để việc đọc sách trở thành một thói quen phổ biến? (trình bày bằng một đoạn văn khoảng 5 – 10 câu) (0.25 điểm).
Giải pháp
4.4
(258 Phiếu)
Giang Anh
nâng cao · Hướng dẫn 1 năm
Trả lời
Giải chi tiết:1/ Thể thơ lục bát.2/ Để làm ra hoa, rễ đã phải: xoắn đau núm ruột, chắt chiu từng giọt, uống từng giọt nước đời quên, ăn từng thớ đá.3/ Bài thơ gợi nhớ tình cảm đạo lí “uống nước nhớ nguồn”. (Thí sinh có thể diễn đạt theo những cách khác như: ơn nghĩa, biết ơn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây,…).4/ Bày tỏ được suy nghĩ; diễn đạt rõ ràng, thuyết phục về ý nghĩa lời khuyên trong câu cuối bài thơ.Gợi ý: “Bắt đầu từ rễ em ơi!”? nhắc nhớ con người về nguồn cội, nhắn gửi thông điệp về lối sống nghĩa tình, chung thủy, biết ơn nguồn cội.5/ Đoạn trích bàn về văn hóa đọc (Thí sinh có thể diễn đạt cách khác như: việc đọc sách, tình trạng không ham đọc sách của người Việt,…).6/ Tình trạng nước đôi của chữ viết đã níu kéo văn hóa đọc, cản trở người Việt đọc sách.7/ - “Đặc trưng chủ yếu của người đọc sách là một tư duy độc lập và một khao khát bất tận với sự hiểu biết”.Lớp người này ở ta “quá hiếm, lại còm cõi ít ỏi và chưa thành một lớp người ổn định”.8/ Gợi ý giải pháp biến việc đọc sách thành thói quen phổ biến: xây dựng các thư viện ở khu dân cư, phát huy tối đa vai trò của thư viện trường học, tổ chức các hội thi tìm hiểu, giới thiệu sách,...